Tài Liệu Số Sách Chuyên Khảo Các Mô Hình Tăng Trưởng Kinh Tế Lưu VIP

Tài Liệu Số Sách Chuyên Khảo Các Mô Hình Tăng Trưởng Kinh Tế

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: Lượt xem: 41 lượt Lượt tải: 0 lượt

Nội dung

3. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Karl Marx

Sự xuất hiện của lý thuyêt phê phán tăng trưởng tư ban chủ nghĩa của Karl Marx vào giữa thế kỷ XIX thực sự là một sự kiện lớn. Các nhà kinh tế thế giới đã khẳng định rằng: Việc xem xét lý thuyết của Marx vẫn luôn cần thiết cho dù hệ thống xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ trong thế giới thực. Lý thuyết của Marx chiếm một trang đặc biệt trong lịch sử về lý thuyết tăng trưởng; và về vấn đề này, rõ ràng là ông đã chịu ảnh hưởng của các nhà lý luận cổ điển khi giữ cách nhìn bi quan đối với sự tăng trưởng tư bản.

Cũng như các nhà kinh tế cổ điển, dự báo của Marx về sự tăng trưởng trì trệ trong dài hạn (do tích luỹ tư bản ngừng lại) cũng dựa trên những lập luận về phân phối, đặc biệt là sự suy giảm của tỷ suất lợi tức trên vốn. Quan điểm của Marx về sự đấu tranh giai cấp do màu thuẫn giữa phân phối tiền lương và lợi nhuận cũng bắt nguồn từ quy luật thép về tiền lương.

Mặc dù có những mối liên hệ gần gũi như vậy, lý thuyết của Marx rất khác biệt so với lý thuyết cổ điển. Các nhà kinh tế cổ điển quan tâm đến sự chuyển giao từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang một kỷ nguyên tăng trưởng hiện đại và quan tâm đến quy luật lợi tức giảm dần của tư bản và lao động, còn đất đai là một đầu vào quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp. Đối với các nhà kinh tế cổ điển, tư bản chỉ là một quỹ tiền lương.

Điều này không giống Marx bởi Marx đã thấy được tư bản cố định bao hàm trong nó “khoa học và công nghệ”. Hơn nữa, trái với lý thuyết cổ điển – mô tả chủ nghĩa tư bản mại bản trong thời kỳ 1500-1750, khi mà thứ được tích luỹ trong quá trình tăng trưởng chỉ là “tư bản lưu động”, lý thuyết tăng trưởng của Marx tập trung vào chủ nghĩa tư bản công nghiệp và tích luỹ tư bản cố định (thể hiện sự tiến bộ công nghệ).

a. Lý thuyết của Marx về sự phát triển tư bản chủ nghĩa

Điểm giống nhau cơ bản giữa mô hình của Marx và mô hình của Ricardo là ở chỗ: cung lao động trong khu vực công nghiệp hiện đại hoàn toàn co giãn tại mức lương được xác định tối thiểu, đây cũng là cơ sở cho việc tích luỹ tư bản nhanh chóng. Tuy nhiên. Marx không thừa nhận quy luật dân số của Malthus (trong khi Ricardo đã coi đó là cơ chế tạo ra đường cung lao động hoàn toàn co giãn). Thay vào đó. Marx giải thích dựa trên sự tồn tại lực lượng lao động “thặng dư” bên cạnh số lao động đã được thuê trong khu vực sản xuất công nghiệp.

Marx gọi lực lượng “thặng dư” này là “đội quân hậu bị công nghiệp”, bao gồm những người vô sản thấp kém sống ở những khu nhà ổ chuột trong thành phố. Họ kiếm miếng ăn bằng nhiều hoạt động khác nhau (từ bán rong đến trộm cắp) trong khi tìm kiếm một công việc chính thức trong khu vực công nghiệp. Theo đó, họ sẵn sàng chấp nhận công việc ở mức lương tối thiểu mà các chủ tư bản đưa ra. Vì vậy, nếu đội quân hậu bị này còn tồn tại, thì mức lương tối thiểu trong khu vực công nghiệp vẫn luôn duy trì ở mức đủ sống.

Giả thiết cơ bản trong mô hình của Marx là: đội quân hâu bị công nghiệp không bao giờ giảm sút, bởi nó luôn được tái tạo trong quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa. Ban đầu, đội quân hậu bị chỉ là những nông dân hay những thợ thủ công sử dụng phương pháp sản xuất truyền thống, họ dẫn bị lấn át bởi các nhà máy tư bản hiện đại và buộc phải tìm việc trên thị trường lao động. Số người bị đẩy ra khỏi những ngành nghề truyền thống liên tục tăng lên cùng với sự phát triển của tư bản chủ nghĩa, bổ sung thêm vào đội quân hậu bị công nghiệp.

Mặt khác, thông qua cơ khí hoá trên quy mô lớn, các nhà tư bản luôn cố gắng thay thế lao động bằng tư bản. Kết quả là số việc làm trong khu vực công nghiệp hiện đại tăng chậm hơn tốc độ tích luỹ tư bản và tăng trưởng sản lượng. Sự gia tăng việc làm chậm chạp này không đủ đáp ứng số gia nhập đội quân hậu bị từ khu vực truyền thống. Vì thế, Marx cho rằng đường cung lao động nằm ngang không phải do quy luật dân số tự nhiên mà là hậu quả của chế độ tư bản chủ nghĩa (liên tục tạo ra đội quân hậu bị công nghiệp).

Mặc dù có cách giải thích khác nhau về đường cung lao động, nhưng cả Marx và Ricardo đều chia sẻ quan điểm cho rằng đường cung lao động hoàn toàn co giãn tại mức lương tối thiểu chính là cơ chế dẫn đến tích luỹ tư bản và tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên, do Marx đưa ra giả thiết rằng các nhà tư bản luôn tìm cách tiết kiệm lao động thông qua tăng tư bản sản xuất, nên tỷ phần thu nhập của tư bản tăng lên là sự đánh đổi với tỷ phần thu nhập của lao động giảm xuống, điều này hàm ý rằng luôn có xu hướng bất bình đẳng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Theo quan niệm ban đầu của Marx, tư bản bao gồm “tư bản khả biến” (là quỹ tiền lương phải trả cho người lao động) và “tư bản bất biến” (là quỹ tiền để mua hàng hoá tư bản và các sản phẩm trung gian). Theo Marx, việc sử dụng “tư bản bất biến” không tạo ra “giá trị thặng dư” (lợi nhuận) bởi nhà tư bản phải mua máy móc và nguyên vật liệu với giá bằng giá trị mà tư bản bất biến đó sẽ tạo ra.

Tải tài liệu

1.

Tài Liệu Số Sách Chuyên Khảo Các Mô Hình Tăng Trưởng Kinh Tế

.pdf
6.01 MB

Có thể bạn quan tâm