Chương 2. QUY TRÌNH XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT
2.1. QUY TRÌNH XÂY DỰNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
2.1.1. Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo thủ tục thông thường
2.1.1.1. Lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được xác ( định là thủ tục đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng trong quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đây là giai đoạn cần có sự nghiên cứu kĩ lưỡng, nhằm xác định nhu cầu, tìm ra các chính sách, quy định pháp luật phù hợp để giải quyết các vấn đề của xã hội và quản lí nhà nước. Vì vậy, đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phải thật chi tiết, cụ thể, rõ ràng với những luận cứ khoa học và thực tế, có tính thuyết phục cao.
Đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phải đáp ứng những yêu cầu sau:
– Văn bản đề nghị ban hành phải nhằm đáp ứng yêu cầu quản lí nhà nước, giải quyết các vấn đề của xã hội và các vấn đề đó cần thiết phải điều chỉnh bằng văn bản quy phạm pháp luật;
– Việc ban hành văn bản nhằm bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân;
– Văn bản đề nghị ban hành phải được đánh giá tác động các chính sách cơ bản và nội dung chính của văn bản;
– Văn bản đề nghị ban hành phải bảo đảm phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước;
– Văn bản đề nghị ban hành phải phù hợp với nội dung cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc có kế hoạch trở thành thành viên;
– Các điều kiện bảo đảm thi hành văn bản phải được xác định rõ;
– Việc ban hành văn bản phải bảo đảm tính khả thi.
a) Các chủ thể có quyền đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
Xây dựng pháp luật là hoạt động vừa mang tính chính trị vừa có tính sáng tạo cao, có ý nghĩa quan trọng và cần có sự tham gia rộng rãi của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Vì vậy, quyền đưa ra sáng kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được mở rộng tới các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm phát huy trí tuệ của cả xã hội trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
– Chính phủ, ủy ban nhân dân
Tương tự như các quốc gia khác trên thế giới, ở nước ta, Chính phủ (cụ thể là các bộ, cơ quan ngang bộ), ủy ban nhân dân (các sở, phòng, ban) giữ vai trò chính trong việc đưa ra đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Điều này xuất phát từ nhiều lí do nhưng hai lí do quan trọng nhất là: 1) Các bộ, cơ quan ngang bộ, ở địa phương là các sở, phòng, ban có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật, thực hiện chức năng quản línhà nước về các ngành, lĩnh vực, do đó, hơn ai hết, đây là các cơ quan nắm rõ những vấn đề bất cập trong xã hội có liên quan đến ngành, lĩnh vực mình phụ trách. Vì vậy, những cơ quan này có đủ cơ sở để xác định những quan hệ xã hội nào cần được điều chỉnh bằng pháp luật và điều chỉnh như thế nào là phù hợp; 2)
Các bộ, cơ quan ngang bộ, sở, phòng, ban có đầy đủ bộ máy để thực hiện. Theo quy định tại Điều 32 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Chính phủ có trách nhiệm lập đề nghị về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh về những vấn đề thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Đề nghị của Chính phủ về xây dựng luật, pháp lệnh do Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện trên cơ sở đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Ngoài đề nghị về xây dựng luật, pháp lệnh gửi cơ quan có thẩm quyền tổng hợp, lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trình Quốc hội thông qua, Chính phủ cũng lập Chương trình xây dựng nghị định. Chương trình xây dựng nghị định do Văn phòng Chính phủ phối hợp với Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan dự kiến trên cơ sở đề nghị của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thông thường, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đề xuất xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi ngành, lĩnh vực quản lí để điều chỉnh về những vấn đề liên quan đến việc quản lí ngành, lĩnh vực.
Tương tự như vậy, ở địa phương ủy ban nhân dân ngoài việc lập đề nghị xây dựng nghị quyết cho hội đồng nhân dân còn tiến hành lập kế hoạch xây dựng quyết định. Kế hoạch xây dựng quyết định do văn phòng ủy ban nhân dân phối hợp với sở tư pháp, phòng tư pháp và các cơ quan có liên quan thực hiện.
– Các cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và Hiến pháp năm 2013 (Điều 84), các cơ quan, tổ chức, đại biểu có quyền trình dự án luật; gửi kiến nghị về luật, pháp lệnh đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Các chủ thể này bao gồm: Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu Quốc hội.