Chương 2. KHÁI QUÁT VỀ XÃ HỘI HỌC GIÁO DỤC
1. KHÁI NIỆM XÃ HỘI HỌC GIÁO DỤC
1.1. Khái niệm
Chúng ta đã biết xã hội học chuyên biệt nghiên cứu từng hiện tượng xã hội một cách cụ thể, chỉ tiết. Nó chỉ ra đặc trưng của một lĩnh vực nhất định trong đời sống xã hội, một loại quan hệ xã hội đặc biệt.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, nó được phát triển rất sớm cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Vì vậy, cùng với sự phát triển của xã hội học, các nhà xã hội học cũng đã nghiên cứu các vấn đề giáo dục bằng hệ thống tri thức và phương pháp của xã hội học. Có thể nói, xã hội học giáo dục là một trong các chuyên ngành của cơ cấu khoa học xã hội học.
Xã hội học giáo dục là một chuyên ngành có cả phạm vì vĩ mô và vĩ mô.
Ở phạm vì vĩ mô, xã hội học giáo dục nghiên cứu giáo dục với tư cách là một thiết chế xã hội (có chức năng nhất định trong xã hội và có mỗi quan hệ chặt chẽ với các thiết chế khác); nghiên cứu các cơ sở giáo dục với tư cách là tổ chức xã hội; nghiên cứu các chính sách xã hội trong lĩnh vực giáo dục. Ở phạm vì vĩ mô, xã hội học còn chú ý đến chức năng của giáo dục (chức năng kinh tế, chức năng xã hội và chức năng tư tưởng văn hoá).
Ở phạm vi vì mô, xã hội học giáo dục tập trung nghiên cứu quá trình hình thành nhân cách theo định hướng xã hội, dưới tác động của các thiết chế xã hội (các cơ sở giáo dục, gia đình, các tổ chức xã hội, cơ quan văn hoá, phương tiện thông tin đại chúng v.v…), nhằm chuẩn bị cho con người thực hiện các vai trò xã hội, bước vào cuộc sống lao động và độc lập trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội. Giáo dục là hạt nhân cơ bản của xã hội hoá cá nhân nói chung, của các vấn đề xã hội liên quan đến sự phát triển nhân cách con người.
1.2. Phân biệt xã hội học giáo dục và giáo dục học
Giáo dục là một hiện tượng xã hội. Mọi hiện tượng xã hội, mọi người trong xã hội, các mối quan hệ giữa con người với con người… đều nhiều hay ít có tác động giáo dục con người cá thể trong xã hội. Những xã hội phát triển đến một mức độ nhất định thì chính xã hội có nhu cầu tổ chức việc giáo dục những lớp người đang trường thành thành một hoạt động tự giác, có mục đích, có hệ thống… của thế hệ trước đến thế hệ trẻ nhằm hình thành và phát triển ở họ những phẩm chất, năng lực… đáp ứng yêu cầu xã hội.
Xã hội học lấy quá trình giáo dục làm đối tượng nghiên cứu. Nhưng xã hội học giáo dục không nằm trong hệ thống các khoa học giáo dục. Giáo dục học là khoa học về việc giáo dục, đào tạo và huấn luyện các thế hệ đang trưởng thành và những người trưởng thành. Xã hội học giáo dục nghiên cứu các vấn đề giáo dục bằng hệ thống tri thức và phương pháp của xã hội học – Nó là lí luận xã hội học về giáo dục. Xã hội học giáo dục là một lĩnh vực của xã hội học, là một ngành khoa học cùng hợp tác với giáo dục học. Xã hội học giáo dục và giáo dục học gắn bó với nhau thòng qua đối tượng nghiên cứu chung – quá trình giáo dục trong phạm vi hoàn chỉnh của nó.
Nhưng hai ngành khoa học trên lại khác nhau ở nhiệm vụ, ở những nguyên tắc phương pháp luận và các hệ thống tri thức phù hợp với những nhiệm vụ của từng khoa học. Như giáo sư Stawislaw Kowalski đã nhấn mạnh: lí luận xã hội học về giáo dục, hay những quan niệm xã hội học về các quá trình giáo dục chỉ được hình thành trên cơ sở nghiên cứu các quá trình giáo dục trong những điều kiện rất cụ thể của các chế độ xã hội – kinh tế khác nhau trên thế giới.
Cụ thể: Hệ thống xã hội học giáo dục tư bản được xây dựng trong những điều kiện của xã hội học tư bản. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, các nhà xã hội học phải luôn bám sát, nắm được quá trình biến đổi cách mạng triệt để và không ngừng diễn ra trong xã hội, để từ đó có thể phát hiện ra được những quy luật khách quan chi phối các quá trình giáo dục XHCN, đất nước mình.
* Trong quá trình phát triển của xã hội học giáo dục, tư tường Mác Lênin có một vai trò quan trọng.
C. Mac và F. Anghen đã chỉ ra:
Nguồn gốc xã hội của nền văn hoá của con người: Chính con người đã sáng tạo ra nền văn hoá trong quá trình lao động tập thể.
Văn hoá là sản phẩm của hoạt động của con người đáp ứng những điều kiện nhất định. Có thể xem văn hoá là toàn bộ những sản phẩm do con người tạo ra trong quá trình lao động, trong quá trình tìm kiếm các phương tiện thoả mãn nhu cầu của bản thân và cộng đồng. Đó là sự sáng tạo chung của xã hội, gắn liền với những điều kiện, mà trong đó con người tạo ra những sản phẩm thoả mãn nhu cầu. Khi kinh tế xã hội phát triển, nhu cầu của con người dần dần được phân hoá, lao động của con người cũng được phức tạp hơn nhằm thoả mãn nhu cầu trí tuệ, triết học, đạo đức… ngày một phong phú…
Những sản phẩm của hoạt động của con người, những giá trị và phương thức hành vi được thừa nhận, được đối tượng hoá (được cố định về vật chất), được chấp nhận và truyền lại cho thế hệ tiếp theo hoặc cộng đồng khác. Chính nhờ con đường đó mà văn hoá phát sinh và phát triển.