Tài Liệu Số Giáo Trình Văn Học Trung Đại Việt Nam Tập 2 Lưu VIP

Tài Liệu Số Giáo Trình Văn Học Trung Đại Việt Nam Tập 2

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: , , , , , Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: Lượt xem: 85 lượt Lượt tải: 5 lượt

Nội dung

2. Khởi nghĩa nông dân phát triển với quy mô rộng lớn, tiêu biểểu là Phong trào Tây Sơn

Có thể nói thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX là “thế kỷ của khởi nghĩa nông dân”. Đời sống người dân vô cùng cực khổ, không còn đường sống, hhọ tất yếu phải vùng lên tranh đấu. Có thể kể ra một số cuộc khởi nghĩa tiêêu biểu như: Năm 1737, Nguyễn Dương Hưng nổi dậy ở Tam Đảo. Năm 17388, Lê Duy Mật gây binh biến ở Thăng Long nhưng thất bại, chạy về Thannh Hoá xây dựng lực lượng đối đầu với triều đình. Năm 1739, Nguyễn Tuyểển, Nguyễn Cừ, Ngô Trác Oánh nổi dậy ở Hải Dương. Sau khi Nguyễn Cửr thuua trận, Nguyễn Hữu Cầu (Quận He) đã lãnh đạo nghĩa quân, lực lượng trrải rộng trên địa bản rộng lớn, có lúc đã uy hiếp Thăng Long.

Năm 117440, Hoàng Công Chất nổi dậy ở Sơn Nam, lực lượng hết sức lớn mạnh, chiếểm cứ một vùng rộng lớn suốt từ miền đồng bằng Sơn Nam đến tận Tây Bắắc, đổi địch với triều đình suốt 30 năm liền (1739 – 1769). Năm 1771, ở Đànng Trong đã nổ ra cuộc khởi nghĩa Tây Sơn do ba anh em Nguyễn Nhạạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Có thể nói, đây là cuộc khởi nghĩa nônng dân lớn nhất trong lịch sử dân tộc. Phong trào Tây Sơn đã cùng một lúc thụực hiện một cách vẻ vang các nhiệm vụ trọng đại của dân tộc trong giai đoạn này:

– Trong một thời gian dài đập tan chính quyền Lê – Trịnh ở Đàng Ngooài và nhà Nguyễn ở Đàng Trong.

– Đánh đuổi hai đội quân xâm lược: quân Xiêm ở Đàng Trong và đđặc biệt là cuộc chiến tranh xâm lược của quân Thanh ở Đàng Ngoài, bảo vệ độc lập dân tộc.

– Thống nhất Nam Bắc, xoá bỏ sự chia cắt đất nước đã tồn tại trên hhai thế kỷ.

– Bước đầu xây dựng một nhà nước với nhiều chính sách tiến bộ về kinh tế, văn hoá, đem lại sự ổn định cho đất nước. Chữ Nôm được đề cao và trở thành văn tự được sử dụng chính thức trong các văn bản có tính chất nhà nước. Chữ Nôm cũng được đưa vào giáo dục, thi cử. Năm 1791, vvua Quang Trung cho lập Viện Sùng Chính, mời La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng để thực hiện các công việc về văn hoá, khoa cử, cho lập các nhà xã học ở các xã, chọn người hay chữ và có đạo đức làm thầy. Năm 1789, cho mở kỳ thi Hương đầu tiên ở Nghệ An, thí sinh phải thi thơ phú chữ Nôm.

Các chính sách chú trọng phát triển kinh tế, công thương nghiệp đã bước đầu có kết quả. Đáng tiếc, sau khi vua Quang Trung qua đời, những mâu thuẫn nội bộ đã khiến cho một triều đại hùng mạnh trở nên suy yếu và nhanh chóng bị Nguyễn Ánh lật đổ.

Nhà Nguyễn được thành lập với việc thắt chặt các kỷ cương xã hội nhưng các phong trào nông dân khởi nghĩa vẫn tiếp tục lan rộng với quy mô rộng lớn hơn.

Triều Gia Long (1802 – 1820): 50 cuộc khởi nghĩa.

– Triều Minh Mạng (1820-1840): 200 cuộc.

– Triều Thiệu Trị (1840 – 1846): 50 cuộc.

– Triều Tự Đức (1846 – 1888): 40 cuộc.

Trong đó có nhiều cuộc khởi nghĩa nổi tiếng như: khởi nghĩa của Phan Bá Vành ở Sơn Nam dưới triều Minh Mạng, khởi nghĩa của Cao Bá Quát ở Mỹ Lương dưới triều Tự Đức,…

Phong trào nông dân khởi nghĩa, có sự tham gia và lãnh đạo của tầng lớp trí thức đã phản ánh những mâu thuẫn cơ bản không thể giải quyết nổi chất chứa trong lòng xã hội phong kiến, chứng tỏ sự suy yếu của chế độ và là cơ sở cho những trào lưu chống đối tư tưởng chính thống; tư tưởng tự do dìn chủ cũng đã manh nha từ lâu,… Đây cũng là một trong những cơ sở cho cuộc đấu tranh đòi quyền sống, đòi quyền làm người, quyền tự do, công bing xuất hiện ngày càng mạnh mẽ trong xã hội và sẽ được văn học phản ánh một cách sâu sắc.

Sự sụp đổ của các thần tượng, sự suy đồi của tư tưởng chính thống và sĩ hỗn loạn trong kỷ cương xã hội cũng khiến cho sức ép về mặt tư tưởng và chính trị xuống người sáng tác ngày càng ít đi, làm xuất hiện ở họ những tư tưởng vượt khỏi khuôn khổ xã hội, vượt khỏi “vòng cương toà” của hệ tư tường chính thống, nhà văn sẽ có nhiều khoảng không tự do hơn cho sự : sáng tạo của mình mà chính quyền cũng không đủ sức để quản lý và kiểm :scát nổi. Điều đó hết sức có ý nghĩa đối với sự phát triển của văn học.

3. Sự xuất hiện của các trung tâm kinh tế – văn hoá và sự lớn mạnhh của tầng lớp thị dân

Từ thế kỷ XVI, XVII kinh tế Đại Việt đã có sự khởi sắc do sự phát triểnn của kinh tế hàng hoá. Sự lưu thông, trao đổi thương mại được Nhà nước tạoo điều kiện phát triển; tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hộii. Nhà nước cũng mở rộng việc buôn bán với thương nhân các nước phươngg Tây như: Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, với Trung Quốcic và Nhật Bản,… Đã xuất hiện những trung tâm kinh tế, các đô thị lớn nhưư Thăng Long, Phố Hiến ở Đàng Ngoài, Hội An, Phú Xuân ở Đàng Trongg. Nguyễn Huy Lượng trong Tụng Tây Hồ phủ (viết vào nửa cuối thế kỷỷ XVIII) đã mô tả cảnh buôn bán tấp nập ở Thăng Long:

Khách Ngô, Sở, chợ Tây ngồi san sát, Rập rềnh cuối bãi đuôi nheo. Thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm…

Cùng với sự xuất hiện của các đô thị là tầng lớp thương nhân, thợ thuủ công, thị dân với tư tưởng phóng khoáng, tự do, không chịu bó mình trongg một số những quan hệ và đạo đức Nho giáo đã trở nên gò bó, chật hẹpp. Công việc buôn bán, tiếp xúc với những khuôn khổ ngoài chuẩn mực đạạo đức truyền thống đã tạo nên ở họ cách sống, cách suy nghĩ mới mẻ hơn, titừ đó mà thấy được những mặt trái cứng nhắc, giáo điều với những ràng buộoc, khắt khe, trái tự nhiên của lễ giáo phong kiến.

Tải tài liệu

1.

Tài Liệu Số Giáo Trình Văn Học Trung Đại Việt Nam Tập 2

.pdf
51.70 MB

Có thể bạn quan tâm