Tài Liệu Số Giáo Trình Văn Học Dân Gian Việt Nam Lưu VIP

Tài Liệu Số Giáo Trình Văn Học Dân Gian Việt Nam

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: Lượt xem: 63 lượt Lượt tải: 2 lượt

Nội dung

Phần II. CÁC THỂ LOẠI THEO PHƯƠNG THỨC KỂ

Chương I: THẦN THOẠI

1.1. KHÁI LUẬN

1.1.1. Khái niệm “thần thoại

Thần thoại tiếng Anh là Myths. Myths là thần thoại, chuyện hoang đường. Thần thoại gốc La-tỉnh là mythos. Mythos là hoang đường, huyền thoại. Từ thần thoại có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Thần thoại là thuật ngữ Hán – Việt để chỉ chuyện kể về thần.

Thần thoại hiểu một cách đơn giản là chuyện nói về thần, mang yếu tố siêu nhiên thân kỳ, ra đời từ thời kì công xã nguyên thủy nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên và xã hội bằng trí tưởng tượng của người nguyên thủy.

Thần trong thần thoại khác thân trong các quan niệm thời sau. Thần trong thần thoại là hình ảnh tự nhiên được nhân hóa và thần thánh hóa, còn thần trong các quan niệm đời sau là gần với tín ngưỡng tôn giáo và lễ nghi phong kiến.

1.1.2. Điều kiện hình thành

Thần thoại ra đời trong điều kiện xã hội chưa phân chia giai cấp, chưa phân công lao động rạch ròi. Đó là xã hội cộng sản (công xã) nguyên thủy. Khoa học chưa phát triển, trình độ nhận thức về thế giới còn non kém nhưng nhu cầu nhận thức, hiểu biết thế giới tự nhiên và xã hội thúc giục con người muốn khám phá. Thiên nhiên vô cùng hùng vĩ, hoang sơ và đầy nguy hiểm, con người chỉ là một sinh vật nhỏ bé, yếu đuối trong thế giới tự nhiên. Thần bắt nguồn từ sự tôn sùng và sợ hãi của con người trước những hiện tượng tự nhiên. Con người cảm thấy xung quanh mình các hiện tượng tự nhiên đều có thần. Quan niệm vạn vật hữu linh là quan niệm cơ bản của thần thoại. Chính sự hiếu biết non kém về tự nhiên nên giải thích tự nhiên theo những suy nghĩ hoang đường.

Cuộc đấu tranh với thiên nhiên và các bộ lạc với nhau của người nguyên thủy cũng là nhu cầu cấp thiết đòi hỏi phải có sự lí giải và phản ánh. Khát khao muốn chinh phục tự nhiên, thuần dưỡng thú vật, sáng chế công cụ và bảo vệ địa bàn sinh sống đã sáng tạo ra những người anh hùng văn hóa trong thần thoại.

Những lớp thần thoại đầu tiên của người Việt có thể xuất hiện với sự xuất hiện của nghẽ nông, tức là vào thời kì cuối đồ đá giữa (văn hóa Hòa Bình) hoặc đầu thời kì đồ đá mới (văn hóa Bắc Sơn, Hạ Long). Nhưng thời kỳ phát triển rực rỡ phải là giai đoạn chuyển tiếp từ giai đoạn đồ đá mới sang thời đại đồ đồng, tương đương với văn hóa thị tộc Mẫu hệ sang chế độ Phụ hệ tiến tới thành lập quốc gia Văn Lang (từ năm 2879 tr. CN đến 258 tr. CN).

Điều kiện hình thành một thể loại VHDG với các hình thức diễn xướng và sinh hoạt văn hóa nguyên hợp phải là một xã hội mà trình độ tư duy, khả năng ngôn ngữ giao tiếp đã đạt đến một giai đoạn khá cao. Khả năng diễn đạt những điều mình tưởng tượng bằng ngôn ngữ và diễn xướng, óc suy đoán, nhận xét phải đạt một trình độ nhất định mới có thể hình thành nên thể loại thần thoại. Vì vậy, việc hình thành thể loại thần thoại là không đồng thời cho tất cả các dân tộc sống trên dải đất Việt Nam.

1.2.3. Đặc trưng của thần thoại

Tính nguyên hợp là đặc trưng cơ bản của thân thoại. Ra đời trong thời kì các ngành khoa học, nghệ thuật chưa hình thành nên thần thoại là khoa học liên ngành. Nó vừa là khoa học sơ khai, vừa là tín ngưỡng nguyên thủy, vừa là nghệ thuật vô ý thức (chữ dùng của Mác) của người nguyên thủy. Thần thoại vừa là văn học nghệ thuật, vừa là khoa học. Nó là sản phẩm của mối quan hệ giữa con người với thực tiễn và con người với xã hội. Nó vừa là nghệ thuật ngôn từ, vừa là nghệ thuật biểu diễn, vừa là tri thức thực hành. Trong thần thoại vừa chứa đựng tín ngưỡng nguyên thủy, vừa là triết học, sử học, dân tộc học, xã hội học.

Thần thoại ra đời trước hết là thể hiện sự nhận thức và truyền đạt nhận thức kinh nghiệm của mình về thế giới tự nhiên. Thần thoại sinh thành, tồn tại và phát triển trong các hoạt động thực tiễn cuộc sống, đặc biệt là trong hình thức nghi lễ thờ cúng tin ngưỡng dân gian. Các động tác nhảy múa diễn xướng thần thoại thường mô phỏng các động tác săn bân, hái lượm, đuổi tà ma…

1.2. NỘI DUNG

1.2.1. Nhận thức của con người về thế giới tự nhiên

Đây là nội dung chủ yếu của thần thoại Việt Nam. Điều quan tâm đầu tiên của người nguyên thủy là vũ trụ do đâu mà có, ai làm ra trời đất, sông ngòi và các hiện tượng tự nhiên như trăng, sao, sấm chớp, mưa gió…

Hệ thống thần thoại của các dân tộc tập trung lí giải nguồn góc vũ trụ. Thần thoại Việt có truyện: “Thần trụ trời”. Thần trụ trời là một vị thần khổng lồ được hình thành trong thế giới hỗn mang. Một ngày từ trong thế giới tối tăm dày đặc ấy, thần vươn vai đứng dậy, từ từ đội trời lên, từ đó trời đất chia làm đôi. Thần đào đất đá đắp cột chống trời. Chỗ đất thần đào thành biển cả, sông ngòi. Chỗ đất thần ném ra do phá cột chống trời thành đồi núi… Thần thoại của người H’mông cũng có cách giải thích tương tự. Chữ “Làu” là vua Trời, khi vũ trụ còn hỗn mang mờ mịt, thần đã gọi ông Chày bà Chày để tạo ra trời đất.

Ông Chày tạo ra bầu trời và bà Chày tạo ra trần gian. Thấy bầu trời vòm thì hẹp mà mặt đất bằng phẳng và rộng nên ông bà Chày bèn nắn mặt đất hẹp lại cho khớp với bầu trời. Do vậy, mặt đất bị nhăn nhúm lồi lõm. Chỗ trời lên thì thành đồi, chỗ lún xuống thành thung lũng, biến hồ. Thần thoại: Ẩm ệt luông của dân tộc Thái mở đầu bằng hai câu hỏi: Cái gì có trước trời? Cái gì mở trước đất?

Tải tài liệu

1.

Tài Liệu Số Giáo Trình Văn Học Dân Gian Việt Nam

.pdf
16.00 MB

Có thể bạn quan tâm