II. CÁC MÔ HÌNH DẠY HỌC VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA MÁY TÍNH
Trong dạy học với sự trợ giúp của máy tính, vai trò của giáo viên có sự thay đổi đáng kể, và người ta mong muốn học sinh có sự chủ động, được phép tự do nhiều hơn trong học tập. Nói cách khác, việc dạy học phải được cá nhân hoá nhiều hơn, phân hoá nhiều hơn. Để ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, từ các lý thuyết học tập, các nhà công nghệ dạy học xây dựng nên các mô hình dạy học có sự hỗ trợ của máy tính.
Các mô hình dạy học theo thuyết hành vi bao gồm: học thông thạo, dạy học theo chương trình, hệ thống dạy học cá nhân hoá, dạy học bằng trắc nghiệm. Trong đó, mô hình học thông thạo là mô hình phổ biến nhất Đặc điểm của các mô hình dạy học theo thuyết hành vi:
– Xác định mục đích dạy học
– Chia mục đích dạy học thành các mục tiêu cụ thể
– Lập kế hoạch và trình tự các sự kiện dạy học
– Trình bày từng sự kiện
– Hướng dẫn và xây dựng các hoạt động thực hành
– Tạo cơ hội cho người học thực hành và thể hiện kết quả học tập
– Củng cố
– Đánh giá
1. Mô hình học thông thạo
Mô hình học thông thạo là một trong những mô hình phổ biến nhất. Mô hình này dựa trên hai nguyên tắc: cấu trúc tuần tự (step by step) và đảm bảo đủ thời gian để mọi học sinh có thể thành thạo mục tiêu học tập.
Mô hình học thông thạo do John B. Carroll (1971) đề ra và có 5 pha hoạt động:
– Định hướng (ôn lại kiến thức cũ, xác định mục tiêu)
– Trình bày (giải thích khái niệm mới, kiểm tra hiểu biết)
– Hướng dẫn thực hành (làm mẫu, làm thử, cung cấp phản hồi đúng)
– Thực hành (thực hành độc lập, phản hồi)
– Đánh giá (đảm bảo sự thông thạo và chuyển sang mức kế tiếp)
Do xuất xứ của mình, nên thuyết hành vi chủ yếu ứng dụng để xây dựng các phần mềm dạy kỹ năng (hướng dẫn và thực hành – luyện tập). Chương trình hướng dẫn ứng với ba pha đầu của mô hình học thông thạo, còn chương trình thực hành-luyện tập ứng với 2 pha cuối. Nhưng nếu coi thực hành – luyện tập là một phần của hướng dẫn thì phần mềm hướng dẫn vẫn được định nghĩa là đơn vị dạy học bao gồm tất cả các pha của mô hình dạy học thông thạo.
Mô hình lí thuyết của các phần mềm dạy học này do Patrick Suppes và các đồng nghiệp tại đại học Stanford đề xuất và ứng dụng vào công nghệ từ những năm 60 của thế kỉ 20. Với những mô hình này, chủ đề được chia thành các mục tiêu kỹ năng riêng biệt, mỗi mục tiêu kỹ năng được trình bày và xây dựng các bài luyện tập riêng. Máy tính sẽ quản lý việc trình bày nội dung và theo dõi các phản ứng (đúng/sai) rồi đưa ra các phản hồi thích hợp. Minh hoạ cho mô hình thiết kế này là phần mềm dạy học trên website “Virtual Skies” do NASA phát triển để hướng dẫn khám phá thế giới kiểm soát không lưu.
Các sự kiện dạy học bao gồm:
– Trình bày mục đích chính và nội dung. Khi di chuyển trỏ chuột qua các biểu tượng trên trang giới thiệu, các nội dung chủ yếu và do đó các định hướng chính của mục đích sẽ được trình bày. Bao gồm các mục chính sau: Airport Design, Aeronautics, Aviation Weather, Aviation Navigation, Air Traffic Management, Communication và Aviation Research
– Trình bày và tổ chức các hoạt động dạy học. Bao gồm các pha của học tập thông thạo như đã trình bày trên. Trong hình vẽ bên, ở chủ đề (mục tiêu kỹ năng) Aeronautics, cột bên trái (phía trên) trình bày bốn mức của hoạt động học:
- Tutorial – đọc thông tin cùng với hình ảnh tương tác để minh hoạ khái niệm tổng quát (giống với pha trình bày)
- Take Control thể hiện kịch bản ra quyết định (giống như pha tổ chức thực hành)
- You Decide_ phần tương tác, người học tiến hành hoạt động tương tự như những học sinh khác cùng làm (giống pha hướng dẫn thực hành độc lập) .
- Certification – Kiểm tra trực tuyến, trắc nghiệm hiểu biết của học sinh của phần đang học (tương tự pha đánh giá của mô hình học thông thạo)
2. Huấn luyện truy vấn
Như chúng ta đã biết, đa số các sản phẩm multimedia được thiết kế dạy học theo kiểu CAI (Computer – Assisted Instruction) và sau đó là CBT (Computer – Based Teaching) đều chủ yếu dựa trên các pha dạy học của lí thuyết hành vi. Kết quả là, người ta thấy rằng, bài giảng với CAI hoặc CBT không khác gì nhiều so với dạy học truyền thống có sửdụng nhiều phương tiện dạy học, và khiếm khuyết cơ bản của chúng vẫn là thiếu tương tác. Để khắc phục, các nhà sư phạm học, các chuyên gia công nghệ dạy học đã tìm sự trợ giúp từ thuyết nhận thức.
Từ lí thuyết của J.Piaget, các nhà công nghệ dạy học thấy rằng, có thể đưa ra hai mô hình dạy học với công nghệ, đó là: huấn luyện truy vấn (Inquiry Training) và học tập khám phá (Discovery Learning)
Theo lí thuyết của J.Piaget, ở giai đoạn thao tác hình thức, cá thể có khả năng kiểm soát sự biến đổi có hệ thống, kiểm tra giả thiết và khái quát hoá kết quả cho những sự kiện tương lai. Giai đoạn này tiếp tục phát triển vào tuổi trưởng thành bằng khả năng suy luận và giải quyết vấn đề. Theo Flavell (1963), có ba thao tác suy luận: kết hợp, gợi mở và giả thiết – diễn dịch. Dựa theo kiểu suy luận giả thiết-diễn dịch mà con người đạt được ở tuổi thiếu niên, người ta đưa ra kiểu dạy học huấn luyện truy vấn. Kiểu dạy học này giúp học sinh phát triển khả năng phán đoán theo phương pháp truy vấn độc lập. Có 5 pha dạy học của mô hình này là:
– Pha thứ nhất: Tạo tình huống có vấn đề bằng bằng trình bày một bài toán, nhằm tạo ra sự mất cân bằng trong kí ức của học sinh