CHƯƠNG II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
1. Thế nào là xung đột pháp luật
Mỗi một quốc gia trên thế giới có một hệ thống pháp luật riêng của mình và các hệ thống pháp luật đó khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời đều có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ pháp luật này hay quan hệ pháp luật khác. Vấn đề cần phải giải quyết là chọn một trong các hệ thống pháp luật đó để áp dụng giải quyết quan hệ pháp luật trên.
Các ngành luật quốc nội như là: Luật dân sự, Luật thương mại, Luật hôn nhân và gia đình, Luật lao động v.v. điều chỉnh các quan hệ của mình một cách trực tiếp và đơn giản. Ví như chỉ cần tìm các quy định cụ thể áp dụng giải quyết đúng “địa chỉ của quan hệ pháp luật cụ thể. Nhưng nếu các quan hệ trên đây lại có một hoặc vài yếu tố nước ngoài tham gia, tất yếu các quan hệ đó đã phụ thuộc (liên đới) tới điều chỉnh của hai hay nhiều hệ thống pháp luật và đương nhiên vấn đề “lựa chọn” một hệ thống pháp luật điều chỉnh là rất cần thiết. Như vậy, xung đột pháp luật có thể được hiểu là trong một tình thế (trạng thái) nhất định mà hai hay nhiều hệ thống pháp luật đều có thể điều chỉnh một quan hệ pháp luật nhất định.
Chọn luật phải dựa trên những nguyên tắc nhất định, chứ không thể tự do, tùy ý, tùy tiện. Điều này có nghĩa là việc lựa chọn hệ thống pháp luật nào để áp dụng sẽ không phụ thuộc vào chủ quan ý chí của toà án có thẩm quyền, hoặc sẽ không phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia quan hệ. Mục đích của Tư pháp quốc tế là điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế (đó là các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo nghĩa rộng).
Tất yếu dẫn đến việc “đụng độ” giữa các hệ thống pháp luật liên đới khác nhau. Để giải quyết vấn đề này không thể không tính tới việc bảo đảm sự bình đẳng và lợi ích của các hệ thống pháp luật liên quan, nghĩa là loại trừ các hệ thống pháp luật khác không áp dụng mà chỉ biết áp dụng luật của mình, lợi ích của mình hay chỉ một hệ thống có lợi. Ngược lại, cách giải quyết trọn vẹn nhất là củng cố sự hợp tác bình đẳng và bảo đảm lợi ích hài hoà giữa các quốc gia.
Tư pháp quốc tế có mục đích và các khái niệm riêng của mình, tất yếu cũng có phương pháp điều chỉnh rất riêng của mình. Hiện nay ở Việt Nam cũng như ở các nước khác trên thế giới, Tư pháp quốc tế có hai phương pháp điều chỉnh, đó là:
– Phương pháp xung đột;
– Phương pháp thực chất.
Hai phương pháp này luôn phối hợp và tác động bổ sung cho nhau để giải quyết các quan hệ Tư pháp quốc tế.
Phương pháp xung đột được xây dựng trên nền tảng của một hệ thống tổng thể của các quy phạm xung đột, đó là hệ thống tổng thể các quy phạm xung đột của nước mà toà án ở đó có thẩm quyền giải quyết (theo nguyên tắc Lex fori).
Hiện nay, sự phát triển của khoa học Tư pháp quốc tế cho thấy rằng không tồn tại Tư pháp quốc tế chung cho tất cả các quốc gia, có nghĩa là các quy phạm của nó có giá trị chung cho các nước. Mỗi quốc gia có Tư pháp quốc tế riêng của mình, và tất nhiên có một hệ thống các quy phạm xung đột riêng và rất đặc thù của mình được xây dựng trên nền tảng xã hội của mình.
Chính vì vậy, một vụ việc hay một quan hệ pháp luật được giải quyết rất khác nhau bởi nó phụ thuộc vào toà án nước nào giải quyết vụ việc đó hoặc cơ quan tư pháp có thẩm quyền giải quyết quan hệ pháp luật đó.
Chúng ta có thể dẫn một ví dụ lấy từ thực tiễn để thấy vấn đề trên rõ hơn: Một cô gái Pháp kết hôn với một nam thanh niên Việt Nam tại Việt Nam mà không có sự đồng ý chấp thuận của bố mẹ cô ta ở Pháp. Tương tự như vậy, cô gái Pháp kết hôn với một nam thanh niên Nga tại Nga cũng không có sự chấp thuận của bố mẹ cô ta ở Pháp.
Để giải quyết vấn đề này cần xem xét luật pháp Việt Nam và luật liên bang Nga về kết hôn của công dân của họ với người nước ngoài.
Luật pháp của mỗi nước đều có các quy phạm xung đột riêng của mình. Ở Việt Nam, để giải quyết điều kiện kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân nước ngoài thì mỗi bên tuân theo luật nước mình về điều kiện kết hôn (Điều 103 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Như vậy, công dân Việt Nam xét theo luật Việt Nam về điều kiện kết hôn, còn công dân Pháp xét theo luật Pháp về điều kiện kết hôn mà theo luật dân sự của Pháp về điều kiện kết hôn thì quy định một điều kiện là cần có sự đồng ý của cha mẹ. Do thiếu điều kiện này nên việc đăng ký kết hôn giữa công dân nam Việt Nam với cô gái Pháp không thể tiến hành được.
Còn ở Liên bang Nga việc xét điều kiện kết hôn giữa công dân Nga với công dân nước ngoài tại Nga được giải quyết theo luật của Liên bang Nga. Do đó cả công dân Nga và Pháp đều xét theo luật pháp của Nga và trong luật của Nga thì điều kiện kết hôn lại không cần phải có sự đồng ý của cha mẹ. Cho nên việc tiến hành kết hôn giữa công dân Nga và Pháp trên lãnh thổ của Liên bang Nga được đăng ký và tiến hành thuận tiện.
Như vậy, cùng là một quan hệ kết hôn với công dân nước ngoài thì ở Việt Nam giải quyết khác ở nước Nga do ở hai nước có hai quy phạm xung đột về điều kiện kết hôn quy định khác nhau.
Quy phạm xung đột không trực tiếp giải quyết quan hệ pháp luật. Nó chỉ có nhiệm vụ dẫn chiếu tới luật thực chất của quốc gia mà ở đó có các quy định thực tế giải quyết. quyền và phân định nghĩa vụ của các bên trong quan hệ. Các quy định đó cũng là nền tảng để giải quyết các tranh chấp khi chúng phát sinh.