III- BIỆN CHỨNG VÀ SIÊU HÌNH
1. Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình
Nếu vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức, tồn tại và tư duy là vấn đề cơ bản chi phối đối với bất cứ hệ thống triết học nào thì một vấn đề quan trọng khác mà triết học quan tâm làm sáng tỏ là: các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh ta tồn tại như thế nào? Chúng hoàn toàn biệt lập với nhau hay phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau; hoàn toàn ở trong trạng thái tĩnh, ngưng đọng, “nhất thành bất biến” hay vận động, biến đổi không ngừng? Lịch sử phát triển của triết học cho thấy mặc dù có nhiều cách trả lời khác nhau về vấn đề này, nhưng suy cho cùng đều quy về hai quan điểm chính đối lập nhau là biện chứng và siêu hình.
Sự đối lập ấy thể hiện trước hết ở chỗ trong quá trình xem xét thế giới xung quanh mình, quan điểm siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.
Ngược lại, quan điểm biện chứng không chỉ thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành và sự tiêu vong của sự vật, không chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà còn thấy cả trạng thái động của sự vật, không chỉ “thấy cây” mà còn “thấy cả rừng”.
Ph.Ăngghen nhận xét: tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung nhau được, họ nói có là có, không là không. Đối với họ, một sự vật hoặc tổn tại hoặc không tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, v.v.. Ngược lại, tư duy biện chứng là một tư duy mềm dẻo, linh hoạt, không còn biết đến những ranh giới tuyệt đối nghiêm ngặt, đến những cái “hoặc là… hoặc là…” vô điều kiện nữa (kiểu như “hoặc là có, hoặc là không”, “hoặc tổn tại hoặc không tồn tại”…).
Tư duy biện chứng thừa nhận trong những trường hợp cần thiết bên cạnh cái “hoặc là… hoặc là…” còn có cả cái “vừa là.. vừa là…” nữa. Chẳng hạn, theo quan điểm biện chứng, một vật hữu hình trong mỗi lúc vừa là nó lại vừa không phải là nó; một cái tên đang bay trong mỗi lúc vừa ở vị trí A lạ vừa không ở vị trí A; cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ lẫn nhau lại vừa không thể lìa nhau, v.v.¹.
Ph.Ăngghen nêu lên “điều căn bản” của phương pháp biện chứng là “xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nìau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”².
Tóm lại, phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng với một tư day cứng nhắc; còn phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mỗi liên hệ ràng buộc lẫn nhau va trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng với một tư duy mềm dẻo, linh hoạt.
2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phép biện chứng
Cũng như chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, các phương pháp biện chứng và siêu hình đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại, khi con người bắt đầu tìm hiểu các sự vật của thế giới xung quanh mình và suy xét về chúng. Từ đó đến nay lịch sử phát triển của các phương pháp biện chứng và siêu hình luôn gắn liền với lịch sử phát triển của khoa học cũng như của thực tiễn và đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Giai đoạn đầu tiên của tư duy triết học biện chứng là phép biện chứng tự phát thời cổ đại thể hiện rõ nét trong “thuyết âm – dương” của triết học Trung Quốc, đặc biệt là trong nhiều học thuyết của triết học Hy Lạp cổ đại. Thời bấy giờ các nhà biện chứng cổ Hy Lạp đã thấy rằng, các sự vật của thế giới xung quanh ta nằm trong một mớ chằng chịt vô tận những sợi dây liên hệ và những tác động qua lại lẫn nhau, trong đó không có cái gì là y nguyên như cũ, đứng yên chỗ cũ, mà tất cả đều vận động, biến hóa, sinh thành và tiêu vong.
Nhưng do chưa đạt đến trình độ đi sâu phân tích giới tự nhiên cho nên các nhà biện chứng cổ Hy Lạp chú ý đến sự vận động, đến sự quá độ từ cái này sang cái khác, đến những mối liên hệ nhiều hơn là chú ý đến cái đang vận động, đang quá độ và đang liên hệ với nhau. Cách nhận xét thế giới như vậy, theo Ăngghen, là một cách nhận xét còn nguyên thủy, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng và là kết quả của một trực kiến thiên tài, song chưa phải là kết quả của những sự nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
Từ nửa cuối thế kỷ XV trở đi mới có một nền khoa học tự nhiên thực sự. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển này khoa học tự nhiên đi sâu vào phân tích, chia nhỏ giới tự nhiên ra thành những mảnh riêng biệt cố định để nghiên cứu. Việc làm đó đã đưa đến những thành tựu vĩ đại trong việc nhận thức thế giới; nhưng phương pháp nghiên cứu đó cũng để lại một thói quen xem xét sự vật một cách siêu hình. Phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong tư duy triết học ở thế kỷ XVIII là điều không thể tránh khỏi.