Giới thiệu giáo trình ” Giáo Trình Marketing Du Lịch “
2. Tầm quan trọng của marketing du lịch
Tại Mỹ, người ta có thể phân biệt công nghiệp hiếu khách (hospitality) với công nghiệp lữ hành (travel), xem là hai thành phần chính của công nghiệp du lịch (tourism). Công nghiệp hiếu khách là một trong những ngành công nghiệp chính toàn cầu. Tại Mỹ, ngành này lớn thứ hai về lượng nhân viên, cung ứng công việc cho khoảng 12 triệu người trên cả 50 bang, tổng doanh số đạt hơn 500 tỷ USD hàng năm.
Marketing được xem là ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong lãnh vực nhà hàng của ngành công nghiệp hiếu khách. Lãnh vực này đang chứng kiến sự chuyển biến từ những nhà hàng riêng lẻ sang các chuỗi nhà hàng, những chuỗi này hoạt động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi những kỹ năng marketing nhằm có được khách hàng.
Khách sạn cũng theo một khuynh hướng tương tự. Nhằm đáp ứng sức ép cạnh tranh ngày một tăng, các chuỗi khách sạn cần dựa vào chuyên môn sâu của các quản trị viên marketing. Vị trí quản trị viên ẩm thực hay quản trị viên phòng không còn là những con đường độc quyền để tiến lên chức vụ Tổng Quản trị. Một số chuỗi khách sạn hình thành nên cấu trúc trong đó quản trị viên marketing báo cáo trực tiếp đến Tổng Giám đốc tập đoàn, như vậy quản trị viên marketing có thể được xem ngang hàng với Tổng quản trị. Marketing trở nên triết lý kinh doanh cần thiết cho mọi quản trị viên, nếu quản trị viên marketing là nhà marketing toàn thời gian thì những quản trị viên khác là những nhà marketing bán thời gian.
Marketing hiếu khách có thành công hay không tùy thuộc rất nhiều vào, toàn bộ ngành lữ hành. Ví dụ, khách hàng của các resort hay khách sạn sẽ mua những gói lữ hành- phục vụ do những nhà bán buôn chào bán qua các đại lý lữ hành. Khi đồng ý tham gia vào các gói do những nhà bán buôn sắp xếp, các khách sạn tránh được cạnh tranh. Tương tự như vậy, các khách sạn và các công ty cho thuê xe phát triển các quan hệ hợp tác với các hãng hàng không cung ứng các khuyến mãi khách bay thường xuyên.
Thành công của các tuyến tàu ngầm là kết quả của việc marketing phối hợp giữa nhiều thành viên trong công nghiệp lữ hành. Các hãng hàng không, cho thuê xe, tàu hỏa cũng hợp tác với các hãng tàu ngầm trong việc phát triển các gói sản phẩm/ dịch vụ, diều này đòi hỏi sự hợp tác trong việc định giá, chiêu thị và thực hiện các gói. Sự phụ thuộc qua lại giữa hiểu khách- lữ hành làm tăng độ phức tạp của công việc. Do vậy, công nghiệp lữ hành đòi hỏi những nhà chuyên môn marketing có hiệu biết toàn cảnh và có khả năng đáp ứng những nhu cầu hay thay đổi của khách hàng bằng việc tạo ra được những chiến lược sáng tạo dựa trên nền tảng kiến thức marketing vững vàng.
Trong tài liệu này, chúng ta chủ yêu phân tích trên cơ sở 5 thành phần chủ yếu của ngành du lịch và lữ hành (hình 1.5), và cũng dễ thấy rất rõ vai trò ngày càng tăng của marketing du lịch trong sự thúc đẩy tương tác giữa 5 thành phần nhằm tạo ra lợi nhuận và thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu khách hàng.
3. Những hoạt động dịch vụ quy mô lớn chiếm ưu thế trong du lịch và marketing du lịch
Thật không dễ để xác định các điểm mà tại đó một nhà sản xuất dịch vụ sẽ trở thành một nhà khai thác quy mô lớn, nó có xu hướng thay đổi trong các lĩnh vực khác nhau của ngành công nghiệp tùy theo tính chất hoạt động của nó. Tuy nhiên, các hoạt động quy mô lớn ở tất cả các nơi trên thế giới, thường biểu hiện các đặc tính phổ biến sau đây, tất cả đều có ý nghĩa quan trọng trong marketing:
1. Sản xuất và bán các sản phẩm được thiết kế có mục đích, lặp lại, và có kiểm soát chất lượng.
2. Thường rất chú trọng đến thương hiệu với sự hỗ trợ quảng cáo và có giá tiêu chuẩn (với các thay đổi theo địa điểm và thời gian).
3. Sản phẩm có sẵn ở nhiều nơi (nhiều điểm bán).
4. Sản xuất liên tục và sẵn có suốt cả năm.
5. Hầu hết các chương trình marketing được quyết định từ trụ sở chính, nơi kiểm soát và chỉ đạo các hoạt động tại từng diễm bán.
Những đặc điểm này là phổ biến với hầu hết các chuỗi bán lẻ, chuỗi thức ăn nhanh, bưu điện, ngân hàng, thuê xe và các tập đoàn khách sạn. Nó không bị hạn chế trong dịch vụ du lịch và lữ hành. Với những đặc điểm đã nêu ở trên, cần lưu ý một số điểm tương đồng lớn cũng như sự khác biệt giữa nhu cầu điều hành các tổ chức dịch vụ quy mô lớn và các nhà sản xuất hàng hoá sản xuất trên một cơ sở sản xuất hàng loạt liên tục.
Levitt dưa sự tương đồng này đến với kết luận hợp lý của nó trong thảo luận về sự cần thiết phải công nghiệp hóa hệ thống sản xuất dịch vụ. Ông giải thích rằng điều này có thể đạt được bằng cách giảm mức độ tùy ý có sẵn ở nhân viên dịch vụ thông qua việc sử dụng các thủ tục tiêu chuẩn hóa, và việc sử dụng những gì ông gọi là công nghệ cứng, công nghệ mềm và công nghệ trung gian (Levitt, 1981: 37). Levitt đã lấy tập đoàn McDonald như là một minh hoạ tuyệt vời của sự hoà trộn thành công của quá trình công nghiệp trong sản xuất thực phẩm và phân phối, với sự kiểm soát chất lượng trên mọi khía cạnh của hoạt động tiêu chuẩn hóa, bao gồm cả các động cơ và hiệu suất của nhân viên, những người cung cấp dịch vụ trong nhà hàng.
Hầu hết các hãng hàng không, các nhóm khách sạn, nhà điều hành tour, chuỗi bán lẻ, cơ quan du lịch và các điểm tham quan du lịch lớn hơn, hiện nay đang cố gắng để tổ chức, kiểm soát và cung cấp năng lực sản xuất liên tục của họ theo những cách tương tự, vì những lý do tương tự. Đó là một vấn đề trong marketing toàn cầu.