II. NHỮNG TIẾN ĐỂ LỊCH SỬ, XÃ HỘI, TƯ TƯỞNG, VĂN HÓA
1. Về lịch sử xã hội
Sau chiến thắng Bạch Đằng, năm 939, Ngô Quyền xưng vương dựng nước, mở đầu một thời kì mới cho giang sơn Đại Việt, thời kì xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập tự chủ. Chế độ phong kiến Việt Nam được hình thành, tồn tại và phát triển trong mười thể ki, với nhiều triều đại – dòng họ. Mỗi triều đại đều có thịnh suy và có vai trò lịch sử riêng trong tiến trình một nghìn năm của quốc gia phong kiến. Nhìn khái quát, lịch sử Việt Nam thời trung đại có thể chia thành hai chặng đường:
Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XV là thời kì phục hưng dân tộc, phục hưng văn hóa dân tộc. Sau khi thoát khỏi ách thống trị 1000 năm của các triều đại phong kiến Trung Hoa, với tinh thần tự cường, yêu nước, các triều Ngô, Đình, Tiền Lê, Li, Trần đã thành có nhiều thành công hết sức rực rỡ trong công cuộc bảo vệ quốc gia tự chủ (phả Tổng, bình Nguyên) và xây dựng, phát triển đất nước vững mạnh về mọi mặt. Thời Trần, quốc gia Đại Việt từng được coi là nước hùng cường trên bán đảo Đông Ân. Tuy thời Hậu Trần và triều Hồ đã thất bại trước quân Minh xâm lược nhưng chỉ 20 năm sau, độc lập dân tộc được giành lại.
Lê Lợi đã lãnh đạo thành công sự nghiệp 10 năm kháng chiến cứu nước. Lịch sử dân tộc vì thể không hoàn toàn đứt đoạn. Đất nước hòa bình, triều Hậu Lê thiết lập, dân tộc bước vào thời kì phục hưng thứ hai trong lịch sử. Thế kỉ XV, chứng kiến thành tựu xây dựng và phát triển quốc gia phong kiến Đại Việt đạt tới đỉnh cao thịnh trị mà “thời đại hoàng kim” là triều Lê Thánh Tông (1460 -1497) ở nửa sau thế kì.
Từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XV, quốc gia phong kiến Đại Việt đã vượt qua nhiều thử thách khốc liệt để khẳng định mình về nhiều phương diện, với tư cách là một đất nước, dân tộc độc lập tự chủ. Về cơ bản giai cấp phong kiến vẫn là lực lượng tiến bộ, giữ vai trò tích cực đối với lịch sử, biết dựa vào sức mạnh của nhân dân, phát huy truyền thống yêu nước đề xây dựng và bảo vệ quốc gia, dân tộc. Sáu thế kì là chặng đường xây dựng, phát triển theo tiến trình từng bước đi tới thịnh vượng.
Từ thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XIX: thời kì vàng son của nhà nước phong kiến đã đi qua. Những năm đầu thế kỉ XVI, các “hôn quân bạo chúa” đầy nhà triều đình Lê Sơ vào bước đường suy thoái, suy vong. Năm 1527, Mạc Đăng Dung thiết lập triều đại nhà Mạc. Thế kỉ XVI – XVII, về cơ bản xã hội vẫn có những phương diện ổn định. Nhưng chế độ phong kiến Việt Nam đã bắt đầu giai đoạn của sự khủng hoảng chính trị. Những mâu thuẫn giữa các tập đoàn phong kiến ngày càng sâu sắc, dẫn đến nội chiến liên miên, đẫm máu: cuộc xung đột Lê – Mạc (thường gọi là chiến tranh Nam Bắc triều) kéo dài nửa thế kỉ XVI (1545 – 1592), tiếp đến cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh diễn ra trong gần 50 năm của thế kỉ XVII (1627 – 1672).
Chiến tranh phong kiến liên tiếp tàn phá đất nước, thiêu hủy của cải và sức lực nhân dân, xã hội luôn loạn lạc suốt hơn trăm năm. Cuối cùng, cuộc chém giết khốc liệt không phân thắng bại. Cả hai tạm thời đình chiến, lấy sông Gianh làm giới tuyển mà “rạch đôi sơn hà”. Giang sơn bị chia cắt theo quyền cai quản của Chúa Trịnh (xứ Đàng ngoài) và Chúa Nguyễn (xứ Đàng trong).
Đến thế kỉ XVIII, cuộc khủng hoàng xã hội trở nên trầm trọng. Vua chúa, quan lại cà hai miền ra sức bóc lột dân chúng, lao vào ăn chơi hưởng lạc. Đời sống nhân dân đói khổ, điêu linh. Giai cấp phong kiến bộc lộ bàn chất tàn bạo, phản động dần trở thành lực lực lượng thù địch với quần chúng nhân dân, với dân tộc. Cuộc đấu tranh giai cấp trở nên quyết liệt.
Thế kỉ XVIII được vinh danh là “thế kỉ nông dân khởi nghĩa” mà đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Sức mạnh cuộc chiến tranh nông dân đã làm nên cơn bão táp lay trời chuyển đất: đập tan triều đình nhà Nguyễn, làm chủ toàn bộ đất đai xứ Đàng Trong; ra Bắc lật đổ cơ đồ thống trị của họ Trịnh; đại phá quân Thanh; thống nhất đất nước, lập ra vương triều Tây Sơn với những triễn vọng tốt đẹp cho dân tộc. Tuy nhiên, triều đại Tây Sơn không bền vững, Nguyễn Ánh lật đổ nhà Tây Sơn, tái thiết vương triều Nguyễn.
Triều Nguyễn được thành lập với nhà nước phong kiến có phần chuyên chế, độc tài. Triều đình thi hành nhiều chính sách khắc nghiệt khiến cho xã hội lâm vào tình trạng “dân cùng, nước kiệt”. Mâu thuẫn xã hội hết sức gay gắt. Tập doàn thống trị không nhượng bộ trước cuộc dấu tranh của quần chúng, cũng không dứng về phía nhân dân chống xâm lược.
Thái độ khiếp nhược, phản động của triều đình nhà Nguyễn dẫn tới thất bại, đầu hàng trước cuộc tiến công của chủ nghĩa tư bản thực dân phương Tây. Cuối cùng, đất nước lại rơi vào tay giặc Pháp. Một hình thái xã hội mới – xã hội nửa thực dân nửa phong kiến – dang hình thành. Có thể nhận thấy, vượt qua dinh cao thịnh trị của thế kỉ XV, bốn thể ki cuối là chặng dường từng bước suy thoái để đi tới sụp đổ của chế độ phong kiến Việt Nam. Đó là bi kịch lịch sử của nhà nước phong kiến, của dân tộc ở thời trung dại.
Nhìn khái quát, suốt 10 thế kỉ thời trung đại, quá trình xây dựng quốc gia, triều đại luôn gắn liền với công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Nét dặc biệt của lịch sử Việt Nam thời tự chủ đã thể hiện sức sống mãnh liệt của một dân tộc vốn có truyền thống đoàn kết, yêu nước, bất khuất chống xâm lược.