Tài Liệu Số Giáo Trình Văn Học Dân Gian Lưu VIP

Tài Liệu Số Giáo Trình Văn Học Dân Gian

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: , , , Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: Lượt xem: 46 lượt Lượt tải: 0 lượt

Nội dung

III- VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC DÂN GIAN

Trên thế giới, folklore là đối tượng khảo cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn. Người ta phân loại folklore từ nhiều góc độ tiếp cận với những mục đích học thuật khác nhau thành: folklore khoa học, folklore nghệ thuật, folklore lí trí, folklore tình cảm,…

Ở một số nước như Mĩ, Anh,… đã có những nhà nghiên cứu đem các sáng tác dân gian truyền miệng sắp xếp hỗn hợp vào cùng với một số loại hình văn hoá, tín ngưỡng, phong tục khác nhau như là một tập hợp di sản truyền thống văn hoá phi vật thể để sử dụng làm các dẫn liệu, chứng cứ giải quyết các vấn đề dân tộc học lịch sử, nhân học văn hoá và văn học trong văn hoá. Theo quan điểm này, folklore ngôn từ không phải là văn học, mà là một loại hình thái ý thức xã hội đặc biệt gọi là tiền văn học.

Ngược lại, ở nhiều nước khác như Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc,… từ folklore nghệ thuật truyền miệng lại được quan niệm là một thể loại của nghệ thuật ngôn từ, là văn học dân gian. Theo quan niệm học thuật này, người ta từng phân loại VHDG theo nguyên tắc kế thừa các cách phân loại kinh điển đối với nghệ thuật ngôn từ của Arixtốt và F. Hêghen. Ở cấp độ khái quát nhất, VHDG cũng được chia thành các loại hình: tự sự dân gian, trữ tình dân gian và sân khấu dân gian. Tuy vậy, khi khảo cứu đến các thể (thể loại) để sắp xếp vào các loại (loại hình) của VHDG lại có vấn đề: Tục ngữ, câu đố, vẻ nên quan niệm thuộc loại hình nào ở trên.

Ở Việt Nam, vào những năm 60 của thế kỉ XX, các giáo trình đại học xếp các thể ấy vào một ô riêng gọi là những câu nói đúc kết kinh nghiệm thực tiễn. Năm 1974, Cao Huy Đình, trong chuyên luận Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, đã đưa ra một bảng phân loại gồm bốn loại hình: văn học kể chuyện đời, văn học phô diễn tâm tình, văn học đúc kết kinh nghiệm thực tiễn và văn học diễn trò. Điều đáng lưu ý ở đây là với VHDG, Cao Huy Định muốn đưa ra một loại hình đặc trưng khác với văn học viết bao gồm các thể lời nói nghệ thuật.

Năm 1980, Phan Đăng Nhật công bố chuyên luận về VHDG miền núi trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, ông dựa hẳn vào phương thức diễn xướng để phân loại thành: văn học hát, văn học kể, văn học nói,… Trong một số bài báo chuyên biệt về phân loại VHDG cũng trong thời gian này của Hoàng Tiến Tựu, ông lại căn cứ vào những đặc điểm trội về kiểu tư duy trong các phương thức phản ánh, phương thức biểu hiện để định loại: văn học nói – suy lí, văn học hát – trữ tình,…

Năm 1983, trong giáo trình Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, Võ Quang Nhơn cho rằng đã đến lúc phải xây dựng danh pháp thể loại và đây mới là vấn đề cơ bản nhất để VHDG Việt Nam có cách gọi tên các thể loại tương ứng với các thuật ngữ quốc tế như nó vốn có. Ông phê phán cách gọi chung các tác phẩm văn vần tự sự trường thiên của các dân tộc là trường ca. Dựa vào đặc điểm chung về nội dung và nghệ thuật trên văn bản cố định, ông chia tách các trường ca thành hai thể loại: sử thi và truyện thơ. Năm 1991, giáo trình Văn học dân gian Việt Nam tập I, dùng chung cho các trường đại học sư phạm, do Đỗ Bình Trị biên soạn được NXB Giáo dục xuất bản.

Lần đầu tiên, vấn đề phân loại VHDG đã được tác giả phân tích, luận giải tỉ mi, công phu trên một khối lượng lớn các nguồn tài liệu lí luận cũng như tác phẩm VHDG trong nước và nước ngoài do điều kiện thực tế đã hội đủ các yếu tố có thể. Để nêu lên thực tế cực kì phức tạp, khó khăn của công việc này, ông viết: Vì VHDG là một hiện tượng có tính chất quốc tế, người ta đã nghĩ đến việc xây dựng một khung phân loại chung cho VHDG toàn thế giới làm tiền đề và điểm xuất phát cho công việc phân loại trên tài liệu VHDG dân tộc. Tuy vậy, đến nay vẫn chưa có một sơ đồ giả thuyết chung nào được chú ý, chưa nói là được coi như đã đạt tiêu chuẩn đó. Thật ra giới nghiên cứu folklore quốc tế, khi đề cập đến vấn đề phân loại, thường chỉ giới hạn vấn đề ở việc phân loại một thể loại nào đó thành những cấp độ dưới thể loại. Theo ông, cách làm này chỉ “thuần tuý kinh nghiệm và có ý nghĩa thực dụng”.

Nó thường dựa vào tiêu chí đề tài và chủ yếu chỉ có tác dụng giúp người ta dùng để tra cứu. Cho nên, thực tế hơn là phải tiến hành xây dựng những nguyên tắc phân loại chung và dựa vào đấy để phân loại tài liệu VHDG dân tộc, chủ yếu là xác định kết cấu thể loại của nó. Ông nhấn mạnh: Một định nghĩa thật sự khoa học, hoàn chỉnh về một số thể loại VHDG nhất thiết phải khái quát được đặc trưng thể loại cụ thể của nó. Và lần đầu tiên, Đỗ Bình Trị đã chỉ ra bốn tiêu chí thể loại gồm các đặc trưng về hệ thống đề tài, về thi pháp đặc thù, về chức năng sinh hoạt – xã hội và về phương thức diễn xướng. Những tác phẩm có sự tương đồng, sự thống nhất ở các tiêu chí trên sẽ được xếp vào một thể loại.

Sự thống nhất như thế đã thể hiện một cách nhận thức khách quan về thể loại, bởi vì thể loại “là một kiểu hình thức nghệ thuật được hình thành một cách lịch sử, ra đời do nhiệm vụ mà nghệ thuật đặt ra trong sự phản ánh những sự kiện thực tế, trong sự biểu hiện thái độ nhất định đối với thực tế”. Theo ông, nguyên tắc phân loại VHDG Việt Nam nên theo ba cấp: Cấp thứ nhất trong phân loại vẫn theo cách “chia ba” gồm tự sự, trữ tình và kịch; cấp thứ hai là nhóm thể loại; cấp thứ ba là thể loại. Theo ông, do tính chất phức tạp riêng của VHDG,

Tải tài liệu

1.

Tài Liệu Số Giáo Trình Văn Học Dân Gian

.pdf
42.50 MB

Có thể bạn quan tâm