Chương 2. CÁCH TIẾP CẬN VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI CHÍNH TRONG XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ
I. ĐÔ THỊ QUA LĂNG KÍNH XÃ HỘI HỌC
Mặc dù xã hội học đô thị ra đời và phát triển mạnh mẽ nhất từ Mỹ, song ngay từ đầu, những tư tưởng xã hội học của châu Âu đã có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của xã hội học đô thị sau này. Điều này ít nhất có hai lí do. Thứ nhất, xã hội học như một khoa học được khởi đầu từ châu Âu; Thứ hai, những nhà xã hội học đô thị đầu tiên đã tiến hành các nghiên cứu ở châu Âu dưới sự chỉ dẫn của các nhà kinh điển. Có thể nhắc đến một số truyền thống cũng như những tên tuổi nổi bật nhất trong lĩnh vực này.
Sự xuất hiện của xã hội học đô thị châu Âu gắn liền với các công trình của hai nhà xã hội học Đức M. Weber (1864-1920) và G. Simmel (1858-1928). Trong một công trình nổi tiếng của mình, M. Weber chứng minh rằng, cơ cấu xã hội của đô thị góp phần phát triển cá tính con người và do vậy, nó là công cụ cho những biến đổi xã hội lịch sử. Nếu M. Weber nêu đặc trưng của đô thị như một thiết chế xã hội thì G. Simmel lại phát hiện ra những khía cạnh tâm lí xã hội của đời sống đô thị, tính chất chức năng và phi biểu cảm của các tiếp xúc ở đô thị. Nét chung đối với cả hai ông là sự thừa nhận tính phi cá nhân (impersonal) của đời sống đô thị, sự quan liêu và các quá trình lí tính của thị trường là những yếu tố cơ bản của đời sống đô thị.
Như vậy, dưới lăng kính của các nhà xã hội học, đô thị có thể được luận giải từ nhiều góc độ. Dưới đây là ba góc nhìn của các nhà xã hội học kinh điển.
1. Đô thị như là một tổ chức xã hội
Các nhà xã hội học kinh điển như Max Weber, Emile Durkheim và Henry Maine đã nhấn mạnh tới các chức năng mà các đô thị nắm giữ và các kiểu tổ chức của chúng. Weber cho rằng các đô thị có những chức năng kinh tế, pháp lí và bảo vệ (Weber, 1958). Khi sử dụng các khái niệm của ông về sự tổ chức hình thức, quyền lực và cai trị (Girth và Mills, 1946), cũng có thể phân tích các chính quyền đô thị và những cấu trúc hình thức của nó. Đóng góp của Durkheim cho xã hội học đô thị có nhiều điểm giống những đóng góp của Weber. Durkheim đã phân tích những khác biệt giữa các hình thức truyền thống và các hình thức phức tạp hơn của sự tổ chức xã hội thường thấy trong các xã hội đang được đô thị hóa ở Tây Âu (Durkheim, 1947).
Ông luận giải rằng, phân công lao động tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các bộ phận dân cư khác nhau, và do vậy đã giúp liên kết những con người thành một dạng được gọi là sự đoàn kết hữu cơ. Trong các xã hội truyền thống, quy mô nhỏ, nơi chỉ có sự phân công lao động tối thiểu và con người tương tác lẫn nhau theo “ý thức tập thể” và truyền thống của họ thì ở đó tổ chức xã hội dựa trên sự đoàn kết cơ học (hay máy móc).
Một luận điểm chủ chốt của Durkheim cho rằng các xã hội có tính phức tạp cao được liên kết ở cấp độ chức năng. Còn khía cạnh quan trọng thứ hai của lí thuyết này là cấu trúc xã hội có thể được phản ánh trong những cách thức mà con người được phân bố trong không gian địa lí (Schnore, 1958). Luận điểm này, sau đó đã được phát triển trong trường phái sinh thái học nhân văn (hay sinh thái học đô thị).
Maine (1870) cũng giống như Weber và Durkheim, nhìn nhận các đô thị như là những tổ chức chức năng. Nền tảng của tổ chức xã hội này là các khế ước xã hội giữa các thành viên của nó. Trong các xã hội đô thị, vị thế của một người với tư cách là thành viên của một gia đình không quan trọng như một mạng lưới các thoả thuận và cam kết lẫn nhau. Các khế ước xã hội cho phép con người sống trong những không gian địa lí không mang tính dòng họ và tương tác với những người khác lạ mà đối với họ đó không phải là những cá nhân.
2. Đô thị như là một tệ nạn
Cho đến gần đây, một số nhà xã hội học đô thị với quan điểm “phản đô thị vẫn tin rằng những điều kiện sống đô thị đã đưa tới những hệ quả tiêu cực đối với cá nhân. Oswald Spengler (1928) cho rằng khi các đô thị càng phát triển lớn lên thì người dân ở đây càng cảm thấy mình khác so với những người dân sống ở nông thôn. Càng về sau, các đô thị càng tách rời khỏi thiên nhiên với những của cải, quyền lực và lôgic của nó. Kết quả là, đô thị mất đi cái “linh hồn tự nhiên” của nó, suy thoái và rốt cục sẽ chết.
Georg Simmel (Wolf, 1950) nhìn thấy đô thị như một tác nhân của sự biến đổi tâm lí và xã hội. Ông cho rằng đời sống đô thị gây ra sự lệch chuẩn và các hành vi tội phạm, nhưng nó cho phép con người một cơ hội để phát triển tối đa những tiềm năng của họ và trở nên tự do.
Theo Simmel, vì một đô thị là quá lớn nên một người không thể kiểm soát và hiểu được toàn bộ nó một lúc. Thứ hai, do tính phức tạp của nó, nên khi sống trong một đô thị con người phải vận dụng một năng lượng tâm lílớn hơn so với khi họ sống ở nông thôn. Điều này gây ra cho người dân đô thị sự quá tải đối với hệ thần kinh, nhưng họ lại đóng kín sự căng thẳng này và sau đó phản ứng lẫn nhau theo một cách phi biểu cảm, blasé (sự nhàm chán).
Tính phi biểu cảm và sự đóng kín này được Simmel xem như là những cách thức để giảm các kích thích thần kinh ở đô thị, song đó cũng là cách để tạo ra những điều kiện trong đó con người không nhận biết mình như một cá nhân mà chủ yếu chỉ như một phức hợp các vai trò bộ phận, rời rạc. Trong khi sự phức tạp của đô thị có thể tạo ra cho cá nhân sự tự do, nó cũng tạo ra cả sự thải loại, đưa họ ra bên lề xã hội (marginality).