II. XÃ HỘI HỌC GIỚI TRONG XÃ HỘI HỌC
1. Đối tượng nghiên cứu của Xã hội học giới
Xã hội học giới là một chuyên ngành của XHH. Nó vừa tuân thủ những nguyên tắc chung nhất của XHH, vừa quy chiếu những nguyên tắc này vào lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt là mối quan hệ xã hội giữa nam và nữ và cách thức mối quan hệ này được xây dựng trong xã hội. Nói một cách cụ thể, XHH giới là xã hội học nghiên cứu đối tượng giới, vị trí, vai trò của vấn đề giới và bình đẳng giới đối với sự vận động và phát triển của xã hội.
Theo những chuẩn mực trên thì Xã hội học giới cũng có 3 lĩnh vực nghiên cứu cơ bản. Đó là:
1.1. Nghiên cứu mối quan hệ giữa sự vận động và phát triển của giới với sự vận động và phát triển chung của xã hội.
1.2. Nghiên cứu mối quan hệ giữa giới với các bộ phận cấu thành khác của xã hội, các thiết chế xã hội đang vận hành trong xã hội như gia đình, văn hoá, giáo dục, chính quyền, luật pháp, nông thôn, thành thị, môi trường… (Những lĩnh vực có liên quan đến vị trí, vai trò của giới).
1.3. Nghiên cứu nội hàm của giới trong dạng thức tương đối độc lập của nó. Đó là mối quan hệ xã hội giữa nam và nữ và cách thức mối quan hệ đó được xây dựng trong xã hội.
Để phục vụ cho việc tư duy và tiếp cận Xã hội học Giới, người ta cũng đã xây dựng bên cạnh hệ thống lý thuyết cơ bản (những quy luật, phạm trù, khái niệm, khung logic) bộ công cụ phân tích để xác định phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cho nó. Cùng với những nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu cơ bản thì nghiên cứu thực nghiệm hay còn gọi là nghiên cứu can thiệp (hoặc hành động) ngày càng phát triển đã góp phần trực tiếp vào việc nhận thức và hoạch định các chính sách về giới, điều chỉnh và hoàn thiện luật pháp, cải tạo xã hội và tạo lập sự bình dẳng trong các quan hệ giới.
2. Chức năng, nhiệm vụ của Xã hội học giới
Khi nói đến chức năng và nhiệm vụ của một ngành khoa học, chúng ta cần phải hiểu rằng, chúng bao giờ cũng được sinh ra để thực hiện những mục tiêu nhận thức và mục tiêu thực tiễn của ngành khoa học đó. Bởi vậy bất kỳ một ngành khoa học nào cũng thường mang trong mình hai chức năng cơ bản nhất: chức năng nhận thức và chức năng thực tiễn. Hai chức năng này hoà quyện không thể tách rời, cái này là cơ sở nhưng cũng là mục tiêu cho cái kia và ngược lại. Chức năng nhận thức của XHH giới là kim chỉ nam, quy định nhiệm vụ là làm thay đổi nhận thức của con người về một cấu trúc xã hội mà trong đó không có nhóm xã hội này cai trị cho nhóm xã hội kia. Từ thay đổi nhận thức, XHH giới có nhiệm vụ làm thay đổi thực tiễn và phục vụ cho chức năng thực tiễn của nó. Ở đây, mối quan hệ giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng là hai cánh tay của cơ thể XHH giới.
Thực tế, nói về nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng là nói về một phương thức biểu hiện khác của chức năng nhận thức và chức năng thực tiễn của nghiên cứu. Nghiên cứu cơ bản là những nghiên cứu có xu hướng nghiêng về những mục tiêu nhận thức, còn nghiên cứu ứng dụng thì lại có xu hướng nghiêng về mục tiêu thực tiễn, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn và dùng thực tiễn để làm sáng rõ lý thuyết. Nhìn chung, hướng về cuộc sống hiện thực, đưa tri thức vào thực tiễn cuộc sống, phục vụ cho cuộc sống của con người ngày càng tiến bộ, văn minh bao giờ cũng là mục đích cao nhất của khoa học dù là khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội và nhân văn, trong đó có XHH nói chung và XHH giới nói riêng.
Tuy nhiên, “Sự thống nhất và đa dạng của thế giới vật chất và tỉnh thần đã khiến cho tri thức khoa học cũng phức tạp và đa dạng không kém. Nó cũng khiến cho sự phân định rạch ròi ranh giới giữa các lĩnh vực khoa học chỉ có thể mang tính tương đối. Sẽ là siêu hình và không khoa học nếu chúng ta chỉ biết khu biệt các loại hình nghiên cứu khoa học khác nhau mà không nhìn thấy sự thống nhất và phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng.
Bởi vậy, nếu nghiên cứu ứng dụng làm đa dạng và phong phú thêm cho những nghiên cứu cơ bản, thì ngược lại, nghiên cứu cơ bản là tiền đề lý luận phương pháp luận, là cơ sở cần thiết cho việc nghiên cứu ứng dụng. Thiếu những nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng sẽ mất định hướng, sẽ lúng túng khi xử lý các tình huống phức tạp từ thực tiễn. Thiếu những nghiên cứu ứng dụng và tính ứng dụng, nghiên cứu cơ bản sẽ chỉ còn là khoa học của sự lãng mạn thuần tuý, sự bay bổng khỏi hiện thực của tri thức” (Đặng Cảnh Khanh, 2006).
Ngày nay, khả năng ứng dụng các tri thức XHH giới vào thực tiễn đã khiến cho hoạt động khoa học không chỉ là một thứ “khoa học vị khoa học” mà còn là “khoa học vị nhân sinh”. Ý nghĩa xã hội và nhân đạo sâu sắc của khoa học giới là nó giúp thay đổi nhận thức về giới, đưa ra các biện pháp giải quyết hiện tượng bất bình đẳng giới đã tồn tại từ hàng chục thế kỷ. Chỉ có gắn mình với thực tiễn thì XHH giới mới mang trong mình các giá trị về tri thức và văn hoá đích thực.