Tài Liệu Số Logistics Những Vấn Đề Cơ Bản Lưu VIP

Tài Liệu Số Logistics Những Vấn Đề Cơ Bản

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: , Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: Lượt xem: 34 lượt Lượt tải: 0 lượt

Nội dung

Khoảng 700 năm sau Công nguyên

Công trình xây dựng nhà thờ Mezquita, ở Cordoba, Tây Ban Nha, cũng là một kỳ tích của các giải pháp logistics. Nhà thờ Mezquita, một công trình kiến trúc độc đáo, được bắt đầu khởi công xây dựng vào những năm 700 sau công nguyên, dưới triều đại Umayyad, cùng với những bước thăng trầm của lịch sử, nơi đây đã nhiều lần thay đổi chủ nhân, dẫn đến thay đổi công dụng của công trình, nơi đây đã từng là thánh đường Hồi giáo lớn nhất châu Âu, cung điện của vua chúa và giờ đây là nhà thờ Thiên Chúa giáo La Mã. Công trình này nổi tiếng với những mái vòm theo kiểu kiến trúc Hồi giáo và 856 cây cột làm từ các loại đá quý, như: cẩm thạch, mà não, thạch anh và hoa cương, được tuyển chọn, chế tác và vận chuyển về từ khắp mọi miền của thế giới Hồi giáo lúc bấy giờ.

Khoảng năm 1200

Vào năm 1188. nghiệp đoàn Hanseatic, tổ chức liên kết các nhà vận tài biển đầu tiên trên thế giới, được thành lập tại Hamburg, Đức. Sử dụng phối hợp những loại phương tiện vận tải khác nhau, đặc biệt tàu gắn hệ thống bánh răng có thể leo dốc, Hanseatic đã tổ chức vận chuyển hàng hóa trên địa bàn rộng lớn, từ Hắc Hải đến biển Bắc. Sự liên kết đã giúp Hanseatic hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.

Khoảng năm 1500

Dịch vụ bưu chính với cam kết giao hàng đúng hạn lần đầu tiên ra đời ở châu Âu. Dưới sự chấp thuận của vua Philipp xứ Burgundy, Franz. Von Taxis đã tổ chức thành công dịch vụ này. Những bức thư, bưu kiện, bưu phẩm được giao đến tay người nhận trong thời hạn quy định ở Paris. Madrid, Vienna, Vatican… Trong điều kiện cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, những cát cứ phong kiến chia cắt lục địa châu Âu thành trăm nghìn lãnh địa nhỏ, thì việc giao hàng đúng hạn quả là phi thường. Một số tài liệu đã ghi nhận, năm 1522 hàng giao nhận dầu tiên trên thế giới đã ra đời tại một miền đất cổ thuộc địa phận Thụy Sỹ, với tên gọi E. Vansai.

Khoảng những năm 1800

Việc phát minh ra động cơ chạy bằng hơi nước và các ứng dụng của nó trong các phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt và đường thủy, đã mở ra kỷ nguyên phát triển mới cho ngành Logistics, nói riêng, và cho nhân loại, nói chung.

Khoảng những năm 1940

Để phục vụ cho các cuộc thế chiến, đặc biệt là chiến tranh thế giới lần thứ hai, các bên tham chiến đã vận dụng rất nhiều giải pháp logistics để vận chuyển binh lính, lương thực, khí tài, quân trang, quân dụng…. Logistics -Hậu cần quân đội đã khảng định vai trò đặc biệt quan trọng của mình, trong một số trường hợp logistics có thể làm thay đổi cục diện chiến trường. Những giải pháp logistics trên chiến trường sau này được áp dụng trên thương trường và mang lại hiệu quả cao.

Năm 1956

Giờ đây, thuật ngữ “container” (“cái hộp” với kích cỡ chuẩn, được dùng để đóng hàng trong quá trình vận chuyển) và “containerization” (container hóa phương thức vận chuyển, trong đó hàng hóa được đóng trong container, xếp lên phương tiện vận tài, hàng hóa được giữ nguyên hiện trạng trong suốt quá trình vận chuyển và chỉ được dỡ ra khi tới địa điểm đến) đã trở nên một phần không thể thiếu trong cuộc sống đời thường. Ít ai còn nhớ, cách đây hơn nửa thế kỷ, vào năm 1956, Malcom P.McLean đã phát minh ra vận chuyển container đường biển, mở ra kỷ nguyên mới trong vận chuyển hàng hóa, tạo điều kiện cho thương mại quốc tế phát triển. Container đã đóng góp rất lớn cho quá trình toàn cầu hóa, làm cho thế giới ngày càng phẳng hơn.

Thập niên 1970-1980

Để tồn tại và phát triển trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt, người ta quan tâm nhiều hơn đến việc tối ưu hóa quá trình cung ứng. để phục vụ cho quá trình này các công ty cung cấp dịch vụ logistics ngày càng xuất hiện nhiều hơn và mô hình Jist – in – Time (JIT) cũng được người Nhật phát kiến ra trong thời gian này. Nguyên tắc cơ bản của JIT là không sản xuất hay vận chuyên hàng hóa khi chưa có đơn đặt hàng. Nói cách khác, mô hình HT nhăm đạt được mục đích cung ứng vật tư, hàng hóa theo nhu cầu thật sự của khách hàng trong thời gian ngắn nhất, giảm thiểu chi phí hưu kho. Để đạt được điều này, vấn đề xử lý và truyền thông tin là yếu tố quan trọng nhất. Thông tin kịp thời, chính xác sẽ thay thế cho việc sản xuất theo dự đoán và tồn kho sản phẩm. Hệ thống JIT phản ứng nhanh theo dạng “cầu kéo, nghĩa là nhu cầu thực tế sẽ được thông tin kịp thời và hệ thống chỉ tạo ra một lượng cũng tương ứng mà thôi.

Trong thập niên này, Tanchi Ohno (CEO của Toyota) và các cộng sự đã cho ra đời mô hình Toyota Production System – TPS (hệ thống sản xuất Toyota). theo đó, tập trung vào san xuất liên tục một san phẩm (one-piece-flow), rút ngắn thời gian sản xuất bằng việc loại bỏ các chi phí trong từng công đoạn của quy trình để đạt được chất lượng tốt nhất với chi phí thấp nhất, cùng với mức an toàn và tinh thần làm việc cao, giữa các phòng ban, bộ phận được kết nối một cách khoa học, hợp lý. Trong hệ thống TPS. Kanban và JIT là những kỳ thuật cơ ban, những giai pháp logisties. được nhiều công ty trên thẻ giới nghiên cứu, áp dụng.

Thập niên 1990

Được đánh dấu bằng việc ứng dụng các mô hình QR và ECR, những giai pháp logistics, được áp dụng chủ yêu trong khâu phân phối. Trong đó, QR (Quick Response đáp ứng nhanh) là chiến lược được các nhà bán hàng, nhà bán lẻ, nhà sản xuất áp dụng rộng rãi nhằm giảm tình trạng hết hàng hóa, tình trạng giảm giá bắt buộc và những chi phí khai thác khác. Những mục tiêu này được thực hiện bằng cách chính xác trong vận chuyên và thời gian đáp ứng nhanh. Đáp ứng nhanh là chiến lược hợp tác giữa các nhà cung cấp và những người bán le nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng, nhờ những dữ liệu lấy được từ các đại lý chúng giúp ca hai bên dự báo được nhu cầu bổ sung.

Tải tài liệu

1.

Tài Liệu Số Logistics Những Vấn Đề Cơ Bản

.pdf
155.46 MB

Có thể bạn quan tâm