BỆNH DẠI (Lyssa – Rabies)
1. Đặc điểm chung và sự phân bố của bệnh
1.1. Định nghĩa
Bệnh dại là bệnh truyền nhiễm gây ra bởi virus dại, bệnh chủ yếu gặp trên dộng vật nhưng có thể lây truyền sang người qua vết cần của động vật nhiễm virus dại hay đôi khi qua đường tiếp xúc của da, niêm mạc tổn thương với môi trường, đồ vật ô nhiễm virus từ chất thải của động vật. Bệnh tiến triển chậm, có tổn thương chủ yếu ở hệ thống thần kinh trung ương, gây bệnh cảnh nặng nề, khủng khiếp, thường dẫn đến tử vong.
Bệnh dại có mặt trên toàn cầu. Bệnh chủ yếu lưu hành trên một số loài động vật hoang dại tạo thành các ổ bệnh thiên nhiên. Trong số gần 90 quốc gia và vùng lãnh thổ đã thực hiện giám sát bệnh dại trong quần thể động vật có 68 nước và lãnh thổ có ổ dịch thiên bệnh dại, chủ yếu ở loài động vật hoang dã như: chồn (59%), dơi (15%), cấy (15%), cáo (3%).
Từ các loài thú hoang dại bệnh lan truyền sang các loài động vật gần người như chó nhà, mèo nhà để từ đó có thể làm lây nhiễm cho con người. Hiện nay ngoài các cực Bắc và Nam vẫn có một số vùng hiện không có lưu hành virus dại trong quần thể súc vật do kết quả của quá trình kiểm soát có hiệu quả của con người, đó là Úc, Niu Dilơn, Ha Oai, Nhật Bản,
Đài Loan, Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Bồ Đào Nha, Hy Lạp và một số vùng tây Ấn Độ, một số đảo ở Đại Tây Dương. Tuy nhiên tỉnh hình dịch có thể xấu đi nếu như hệ thống kiểm dịch động vật liên quốc gia không hoạt động tốt và thường xuyên. Các quốc gia còn lại mặc dù thường xuyên thực hiện chương trình giám sát ở bệnh dại thiên nhiên và có biện pháp dự phòng bằng vắc xin cho súc vật nuôi, nhưng hàng năm vẫn có tới hàng chục nghìn súc vật lên cơn bệnh dại ở động vật hay trên người.
Trung tâm bệnh động vật toàn Châu Mỹ ở Achentina đánh giá rằng ở khu vực Châu Mỹ La Tình hàng năm bệnh dại dã gây thiệt hại cho ngành chăn nuôi gia sức tới 28 triệu USD.
Do mối quan hệ mật thiết giữa động vật và con người nên tình trạng bệnh dại trên người luôn luôn là vấn đề sức khỏe cộng động nổi lên hàng đầu, nhất là ở những quốc gia và khu vực đang phát triển. Mỗi năm có trên 10 triệu người bị súc vật mắc dại hoặc nghỉ dại cần phải điều trị dự phòng bằng vắc xin dại, có khoảng 35.000 tới 45.000 người bị chết do bệnh dại, phần lớn được báo cáo từ những nước thuộc vùng nhiệt đới, nơi có tới 3/4 dân số thế giới sinh sống.
Tại Châu Âu, trong những năm giữa của Thế kỷ XX bệnh dại chủ yếu xảy ra ở CHLB Đức, áo, Thụy Sĩ, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, nhưng bệnh đã giảm xuống kể từ năm 1978 khi văcxin dại uống bất dầu thực hiện. Số trường hợp mắc dại ở miễn tây Châu Âu đã giảm rất mạnh từ năm 1992.
Tại Châu Á và Châu Phi, bệnh dại dang là vấn đề y tế cộng đồng đặc biệt nghiêm trọng do hàng năm có số người lên cơn dại và chết vì bệnh dại rất cao. Chó nhà được coi là nguồn gây bệnh chủ yếu. Tại Ấn Độ hàng năm có khoảng 3 triệu người phải tiêm văcxin dại, trong số đó có 40% là trẻ em dưới 14 tuổi và 92 – 95% là do bị chó cắn.
Trung Quốc cũng là quốc gia có tình hình bệnh dại khá nghiêm trọng. Mỗi năm nước này có khoảng 250 – 300 người chết vì bệnh dại, và có tới 95 – 98% số người tiêm văcxin là do chó cần. Tình trạng tương tự cũng xảy ra tại Nepal, SriLanca, Bangladet, Indonesia. Tại các nước Đông Nam Á hàng năm tỷ lệ chết vì lên cơn đại chiếm tới 80% số chết do bệnh dại trên toàn thế giới.
Việt Nam là một trong những quốc gia mà tình hình bệnh dại còn khá nghiêm trọng cả trên động vật và trên người. Trong nhiều năm bệnh dại lưu hành và phát triển ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước tuy mức độ bệnh lưu hành có khác nhau giữa các khu vực. Những năm 1990 – 1995 số chết do dại lên cơn từ 350 – 500 người/năm, với tỷ lệ tửvong trung bình của giai đoạn là 0,43/100.000 dân, đứng đầu trong số 10 bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ chết cao nhất ở Việt Nam.
Sau nhiều năm áp dụng các biện pháp phòng chống kết hợp như tăng cường quản lý đàn chó nuôi ở các khu dân cư; tiêm văcxin đại trà cho dân chó, mèo, phát triển các điểm tiêm văcxin cho người bị súc vật cân nghi dại, đặc biệt tăng cường công tác tuyên truyền nhằm thay đổi hành vi tích cực phòng chống bệnh dại trong cộng đồng, kể từ năm 2000 tình hình bệnh dại có nhiều cải thiện.
Tuy nhiên trong vòng 5 năm gần dây số trường hợp chết do lên cơn dại và số người phải đi tiêm phòng dại lại có chiều hướng tăng lên, nhất là ở một số tỉnh miền Bắc và Tây Nguyên. Trong năm 2007 riêng 19 tỉnh, thành miền Bắc đã có 89 trường hợp chết do dại và gần 60 ngàn trường hợp phải điều trị dự phòng bằng văcxin dại.
Nguồn truyền bệnh dại ở Việt Nam chủ yếu là chó nhà (yo y/%), sau đó là mèo và chưa thấy có ở các súc vật khác.
2. Tác nhân gây bệnh
2.1. Hình thái
Tác nhân gây bệnh dại là virus dại (Rabiesvirus) thuộc họ Rahbdoviridae, giống Lyssavirus. Virút chứa ARN một sợi, hình viên dạn một dầu tròn, có chiều dài trung bình từ 100 – 130nm, đường kính 70 – 80nm. Thành phần cấu trúc bao gồm 67% là protein, 26% lipit, 1% ARN. Vô của virus có 2 màng mông phospholipid xen kẽ với những gai. Nucleocapside có cấu trúc đối xứng hình trụ. Vỏ ngoài của virus là chất lipid nên dễ bị phá hủy trong các chất dung môi như nước xà phòng.
2.2. Sức đề kháng
Sức đề kháng của virus dại nhìn chung yếu, dễ bị bất hoạt ở nhiệt độ 56C/30 phút, ở 60°C/5-10 phút và ở 70°C/2 phút. Hạt virus bị mất độc lực bởi các hóa chất khử trùng ở nồng độ thông thường, hay dưới tác động của tia cực tím hoặc ánh sáng mặt trời. Trong diều kiện lạnh 4°C virus sống dược từ vài tuần đến tháng và ở nhiệt độ dưới 6°C sống được 3-4 năm. Virút bảo tồn khả năng sống và độc lực chủ yếu trong cơ thể vật chủ, nhờ vậy chúng có thể tồn tại hầu như không bị gián đoạn trong thiên nhiên.