PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN BỆNH KÝ SINH TRÙNG Ở ĐÂ
I. PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN CÁC BỆNH GIUN SẢN
Có hai cách chẩn đoán bệnh giun sán: Chẩn đoán trên để sống và chẩn đoán trên dẻ đã chết.
1. Phương pháp chẩn đoán trên đẻ còn sống
Chẩn đoán bệnh giun sán trên đề còn sống bao gồm các phương pháp: Chẩn đoán lâm sàng, chẩn đoán trong phòng thí nghiệm và chẩn đoán miễn dịch.
a. Chẩn đoán làm sùng
Một số bệnh giun sán có những biểu hiện lâm sàng rất đặc trưng và để nhận biết như rối loạn thần kinh trung ương (đi vòng quanh, co giật trong bệnh ấu sán ở não dê, cừu). Nhưng đa số các bệnh giun sán thường không có những biểu hiện đặc trưng và khó phân biệt như rối loạn tiêu hoá, ăn uống kém… Vì thế không thể dựa và triệu chứng lâm sàng để chẩn đoán chính xác mà cần phải có những phương pháp chẩn đoán phòng thí nghiệm.
b. Chẩn đoàn trong phòng thí nghiệm
Mục đích của phương pháp này là tìm giun sán trường thình, trứng hoặc ấu trùng giun sán ở trong phân đè bằng các nghiên cứu định tính và định lượng
Kỹ thuật lấy phân đẻ để xét nghiệm
Trong đầu hoặc trên nền chuồng có chứa số lượng lớn trứng và ấu trùng giun tròn sống tự do. Khi phân để thải ra lọt qua khe sân chuồng rơi xuống nền chuồng, trứng và ấu trùng của các giun tròn sống tự do này có thể đính vào phân, sinh trưởng, sinh sản và gây khó khăn cho việc xét nghiệm chẩn đoán. Vì vậy, cần lấy phân trực tiếp qua hậu môn để.
Theo kinh nghiệm của chúng tôi, để khi bị kích thích sẽ thải phân rất nhanh. Vì vậy, chỉ cần dùng ngón tay kích thích vào hậu môn đệ là dễ sẽ thái phân nguy, dùng bàn tay hứng lấy phân đẻ, cho vào túi nilon sạch. Nếu để bị là chày, phản lòng thì lấy phân vào lọ. Phân của mỗi đề để riêng, có nhân ghi số thứ tự đẻ, tính biệt, tuổi, khối lượng, địa điểm.
Mẫu phân phải đưa về phòng thí nghiệm hoặc cơ sở nghiên cứu để xét nghiệm ngay (bởi vì trừng nhiều loài giun tròn ở nhiệt độ 20C hoặc cao hơn, chỉ sau 16 – 18 giờ sẽ nở ra ấu trừng nên xét nghiệm chẩn đoán khó khăn hơn. Mặt khác, trong thời gian này, ấu trùng giun phối Dictyocaulus cũng sẽ lột xác lẫn thứ nhất và trở nên ít hoạt động nên sẽ gặp khó khăn khi phân ly ẩu trùng bằng phương pháp Baerman).
Nếu mẫu chưa xét nghiệm được ngay thì cần bảo quản lạnh, nhiệt độ dưới HC
– Nghiên cứu định tính:
Là phương pháp xác định có hoặc không có các loài giun sán ký sinh ở đề, tức là tìm các gian sân trưởng thành hoặc các đốt sán đây, trứng hoặc ấu trùng giun sán có trong phần đô. Đây là phương pháp thông dụng để đánh giá tình hình nhiễm giun sán ở các dân de.
+ Phương pháp tím gian sân trưởng thành
Để tìm giun săn trưởng thành hoặc các đốt sản đây được thải ra theo phần đề (đặc biệt là khi tẩy giun sán thâm dò), có thể dùng que bởi phân và quan sát bằng mắt thường hoặc quan sát kỹ hậu môn của từng dê (có thể phát hiện cả đoạn sán dây lùng lằng ở hậu môn). Thường thì thu gom toàn bộ phân đê vào chậu rồi hoà tan trong nước, để lắng, gạn nhiều lần cho đến khi cận láng trong thì gạn mước đi để tâm giun sán trong căn
+ Phương pháp tìm trùng giun sán:
Có nhiều phương pháp tìm trứng giun sán, những đạt hiệu quả cao và đơn giản, dễ làm là hai phương pháp: Phương pháp phù nổi Füllebom và phương pháp gạn rửa sa ling
Phương pháp Fülleborn Là một trong các phương pháp phủ nổi đễ làm và rẻ tiền. Nguyên tắc của phương pháp này là lợi dụng dung dịch muối ăn (NaCl) bão hoà có tỷ trọng (d = 1,18) lớn hơn tỷ trọng của trứng giun sán, làm cho trứng giun sán nổi lên bề mặt của dung dịch
Cách pha dung dịch nước muối bào hoà: Cho từ từ muối ăn vào chậu hoặc nồi nước sôi, vừa cho vào vừa khuấy cho đến khi muối không thể hoà tan được nữa. Để nguội, được dung dịch nước muối bão hoà (Thường dùng 450 gam muối ăn cho một là nước).
Cách tiến hành phương pháp phủ nổi Füllebom:
Lấy 5-10 gam phân đề (khoảng 4 – 8 viên phân) cho vào cốc sạch, cho một ít nước muối bão hoà, đùng que thuỷ tỉnh hoặc que tre nghiền nát phân, cho tiếp nước muối bão hoà (khoảng 1 phần phân 20 phần nước muối hão hoà), khuấy đều cho tan phân, lọc dung dịch phản qua lưới sát hoặc vải màn sang một cốc sạch khác để loại bỏ phần căn bã. Nước lọc được để yên 25 – 30 phút.
Trong thời gian này, trứng giun sán có tỷ trọng nhỏ hơn tỷ trọng của nước muối hảo hoà sẽ nổi lên trên bề mặt dung dịch. Dùng vòng dây thếp có đường kính 3- 5mm vớt lớp váng trên bề mặt, cho lên phiến kính quan sát dưới kính hiển vi. Hoặc sau khi lọc bỏ cặn bã, chia nước lọc vào các lọ nhỏ hẹp miệng cho đấy có ngọn, đậy phiến kính lên, sau 25 – 30 phút trứng giun sán nổi lên sẽ hảm vào phiến kình, lấy ra sơi kính hiển vi tìm trứng giun sán.
Chú ý: Nếu để lâu hơn thời gian trên, trứng giun sán ở bề mặt sẽ bị chìm dân xuống đây nên không kiểm tra thấy trên phiên kính. Sau mỗi lần xét nghiệm, các que thuỷ tỉnh, que tre, lưới sắt, cốc, lọ nhỏ hẹp miệng đều phải rửa thật sạch và sát trùng qua đèn cồn. Có như vậy mới đánh giá chính xác tình hình nhiễm giun sán ở từng con để
Phương pháp Fullebom có thể phát hiện phần lớn trứng các loài giun tròn và sản dây.
Phương pháp gạn rửa sa lăng hay còn gọi là phương pháp lăng cận trường giun sán. Nguyên tắc của phương pháp này là dùng nước sạch tách trứng giun sán ra khỏi phân.
Cách tiến hành: Lấy 5 – 10 gam phân (khoảng 4 – 8 viên phân). cho vào cốc, đổ vào ít nước sạch, dùng que thuỷ tình hoặc que trenghiền nát phân. Cho thêm nước sạch (1 phần phân + 10 phần hước), khuấy tan phân rối lọc qua lưới thép vào một cốc sạch khác để bỏ cặn bã. Đổ thêm nước vào đây cóc, khuấy đều. Để lăng cận 15- 20 phút, gạn bỏ nước và giữ lại cận.