Tài Liệu Số – Bác Sĩ Cây Trồng Tập 2 – Giống Cây Trồng Lưu VIP

Tài Liệu Số – Bác Sĩ Cây Trồng Tập 2 – Giống Cây Trồng

Danh mục: , Người đăng: Ly Võ Thị Nhà xuất bản: Tác giả: , , Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: Lượt xem: 40 lượt Lượt tải: 0 lượt

Nội dung

1. Giống là gì? Thế nào gọi là giống cây trông?

Theo khái niệm dân gian thì giống là sự giống nhau về đặc điểm bên ngoài và cả đặc điểm bên trong khi so sánh giữa các cá thể này với các cá thể khác. Người ta thường nói đứa bé này giống bố nó như một khuôn đúc ra khi người ta nhận xét về khuôn mặt, màu da, bộ tóc, con mất, vừng trán, tay chân, cách ăn nói, cử chỉ, thói quen, cách đối xử với người thân cũng như cộng đồng xung quanh nó. Người ta thấy hầu như tất cả các đặc điểm đó đều được sao chép lại từ cha của nó.

Còn nhà khoa học muốn xác minh rằng hai cá thể đó có cùng một dòng máu, thứ ADN (là chất Adenosin Nucleotid, chất quyết định về bản chất di truyền trong cơ thể thực vật và động vật). Nếu hai cá thể đó cùng nhóm máu, cùng có kiểu cấu tạo ADN giống nhau thì mới dám nói hai cá thể đó giống nhau, hay hai cá thể đó có cùng nguồn gốc, cùng giống.

Tuy nhiên, đối với con người, giữa bố và con, giữa mẹ và con hay ha anh em với nhau không phải lúc nào cũng có đặc điểm bên ngoài giống nhau, mà thường chỉ có những người đẻ sinh đôi, sinh ba mới có đặc trưng luôn luôn giống nhau. Đối với bố con, mẹ con hay anh em, muốn biết họ là cùng dòng dõi, thì nhất thiết phải thông qua xác định máu, xác định ADN mới chắc chắn được.

Khi người ta nói giống lúa, giống ngô thì khái niệm này cũng được sử dụng một cách tương tự. Ví dụ, nói đây là giống lúa Nàng thơm Chợ Đào thì trước hết các đặc tính bên ngoài (đặc tính hình thái) phải giống nhau, ví dụ chiều cao cây, màu lá, dạng lá, màu bẹ lúa, khả năng đẻ nhánh, đặc điểm đẻ nhánh, thời gian trổ bông, dạng bông, dạng hạt, màu sắc hạt, kích thước hạt, màu sắc hạt gạo, kiểu lông, râu của hạt, mùi thơm khi trổ, khả năng chống chịu sâu, bệnh, khả năng kháng đổ, ngã; khả năng kháng phèn, kháng mặn … phải giống nhau.

Người ta còn nhận xét cả chất lượng gạo, chất lượng cơm như độ dẻo, độ thơm của cơm khi mới nấu và khi để nguội Tất cả các đặc tính và tính trạng được quan sát phải như nhau thì người ta mới kết luận gọi là giống Nàng thơm Chợ Đào. Khi khoa học phát triển thì các nhà khoa học còn phải chứng minh sự giống nhau về thành phần hóa, lý tính như: hàm lượng amylose, amylose pectin, nhiệt độ hóa hó, cấu trúc di truyền: số nhiễm sắc thể, cách sắp xếp gen (phân tích cơ sở di truyềên: ADN, ARN).

Nếu các đặc điểm đó cũng giống nhau thì mới kết luận chúng cùng một giống, như vậy giống cây trồng (bao gồm hạt, cành, ngọn, đoạn thân, rễ, củ…) là một quản thế mà các đặc tình hình thái, vật lý, hóa học và di truyền đều giống nhau. Khi gieo cấy hay trồng ra đồng ruộng thì các đặc tính, tính trạng đó vẫn được duy trì như bố mẹ của nó vốn có. Trong sản xuất, người ta phân biệt các cấp giống như sau:

1. Giống tác giả: Đó là giống do nhà nghiên cứu tạo ra, số lượng rất ít, có độ thuẩn (độ đúng giống) rất cao, thường là 99,5 đến 99,8%.

2. Giống nguyên chủng: Từ giống tác giả người ta nhân ra để có khối lượng nhiều hơn, nhằm cung cấp cho các cơ sở nhân giống để phát triển trong sản xuất, công tác cách ly được thực hiện chặt chẽ ở cơ sở thí nghiệm hay ở trại giống của Viện, Trường thì được gọi là giống nguyên chủng. Độ đúng giống của giống nguyên chủng thường đạt mức 99,5 – 99,8% trở lên, tạp chất rất ít, số hạt có vết sâu hay hạt bị bệnh hầu như không có.

3. Giống cấp 1: Từ số giống nguyên chủng này để có giống phát triển ra sản xuất, các trại giống các tỉnh hay ngay cả các cơ sở của các Viện nghiên cứu, các trường đại học nhân ra theo một qui trình được kiểm soát tương đối chặt để có giống cấp 1.

4. Giống xác nhận: Từ giống cấp 1, các trại cấp huyện, các nông dân tiên tiến làm hợp đồng nhân giống có sự giám sát chặt chẽ của các công ty giống hay cán bộ kỹ thuật để có giống xác nhận (thường là cấp 2, cấp 3) để phục vụ cho sản xuất. Giống xác nhận thường có độ dùng giống khoảng 98% trở lên và có độ nảy mầm khoảng trên 80%, tỷ lệ hạt lạ và hạt bị sâu bệnh cũng được khống chế cụ thể để không làm giảm năng suất của giống trong sản xuất.

Cũng có lúc người ta gặp giống cấp 1, 2, 3 chung thành giống xác nhận, tùy theo chất lượng được cơ quan kiểm tra đánh giá và công nhận (Bảng 1 và 2). Về lý thuyết thì như vậy, còn trong thực tế thì Trung tâm Khảo nghiệm giống Quốc gia không đủ nhân lực và điều kiện để kiểm tra chất lượng hạt giống thương mại trong sản xuất.

Vì vậy, các công ty. các cơ quan nghiên cứu hay các trung tâm giống địa phương tự công nhận giống của họ là chính. Ở Thừa Thiên – Huế (năm 2004), các Hợp tác xã (ở Phong Điền, Hương Thủy) tự sản xuất và tự công nhận giống và họ đã công bố là huyện, tỉnh đã phổ cập giống cấp 1 trong sản xuất. Nếu đùng như vậy thì trình độ làm giống của nông dân ở địa phương thật đáng kinh nế.

Vai trò của giống trong sản xuất nông nghiệp như thế nào?

Như trên đã nói giống được nông dân xếp vào hàng “tứ trụ” để có năng suất cao. Trong một loài cây có rất nhiều giống, mỗi giống như vậy mang đặc tính khác nhau về hình thái, thời gian sinh trưởng, phẩm chất nông sản. Ví dụ, riêng cây lúa hiện nay tồn tại hàng ngàn giống.

Nhờ tính đa dạng về di truyền như vậy nên nông dân ta có đủ giống thích ứng với các điều kiện sinh thái khác nhau như lúa thâm canh ở vùng phù sa, lúa thích ứng được vùng đất phèn, đất mặn, đất than bùn; lúa chịu ngập, lúa nổi, lúa chịu được hạn để trồng ở vùng đồi núi, giống chịu rét để trồng được vào vụ đông xuân ở miền Bắc nước ta.

Tải tài liệu

1.

Tài Liệu Số – Bác Sĩ Cây Trồng Tập 2 – Giống Cây Trồng

.pdf
13.96 MB

Có thể bạn quan tâm