Giới thiệu giáo trình ” Giáo Trình Tài Chính Quốc Tế “
2.1.3. LỢI ÍCH TỪ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Lợi ích cơ bản từ thương mại quốc tế được thể hiện ở chỗ: nó mang lại sự thịnh vượng kinh tế ngày càng cao cho những quốc gia tiến hành chuyên môn hoá sản xuất những hàng hoá và dịch vụ có năng suất hơn các hàng hoá và dịch vụ khác. Một hàng hoá có năng suất hơn các hàng hoá khác được thể hiện ở chỗ: cùng đầu vào như nhau chúng ta có thể sản xuất hàng hoá này có giá trị lớn hơn so với trường hợp nếu sản xuất ra hàng hoá khác.
Trong kinh tế học, hiện tượng “năng suất hơn” còn được gọi là “những lợi thế so sánh – comparative advantages”. Tất cả các quốc gia tham gia thương mại quốc tế đều có thể và đồng thời đạt được lợi ích: (i) từ lợi thế so sánh của mình, (ii) từ tiết kiệm chi phí nhờ mở rộng quy mô sản xuất và (iii) từ mở rộng sự lựa chọn các sản phẩm để tham gia thương mại quốc tế.
Trong những năm gần đây, người ta ngày càng thừa nhận rằng lợi ích từ thương mại quốc tế đã vượt trội những lợi thế so sánh tuyệt đối dựa trên cơ sở tài nguyên thiên nhiên. Nếu không dựa vào những lợi ích từ thương mại quốc tế, thì khó có thể giải thích rõ ràng được sự thành công trong tăng trưởng kinh tế của Hong Kong so với Argetina khi mà nguồn tài nguyên của Hong Kong là rất hạn hẹp, trong khi đó nguồn tài nguyên của Argetina thì dư thừa.
Tương tự, những lợi thế so sánh tuyệt đối cũng không thể giải thích được tại sao lại có sự khác biệt trong tăng trưởng giữa các vùng trong cùng một quốc gia; hay tại sao bộ phận này thì được mở rộng, bộ phận khác thì bị thu hẹp ngay trong cùng một ngành công nghiệp. Rõ ràng là, những nhân tố năng động (dynamic factors) chứ không phải tài nguyên thiên nhiên tĩnh (static production abilities) đã đóng vai trò quyết định cho sự thành công trong thương mại quốc tế dựa trên nguyên lý lợi thế cạnh tranh (competitive advantages).
Đặc biệt, những sản phẩm đặc trưng thành công trên trường quốc tế của các quốc gia đều là những sản phẩm có tính năng động cao, đã chinh phục được trước hết là người tiêu dùng trong nước. Ví dụ, nước Pháp thành công đổi với rượu vang và phó mát, nước Đức thành công đối với bia và xe hơi, nước Anh thành công đối với bánh kẹo, nước Italy thành công đối với mốt và nước Mỹ thành công đối với phim ảnh; những thành công này một phần là nhờ sở thích của người tiêu dùng của chính các nước này đã buộc các công ty phải sản xuất hàng hoá chất lượng cao.
Sau khi đã thành công ở thị trường nội địa, thì những công ty này có thể thành công ở thị trường nước ngoài. Một nhân tố khác góp phần làm cho thương mại quốc tế trở nên quan trọng là: bên cạnh ngành xuất khẩu, thì những công ty và những nhà cung cấp thuộc những ngành công nghiệp phụ trợ lân cận cũng vì thế mà phát triển.
2.1.4. RỦI RO TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Bên cạnh những lợi ích là những rủi ro trong thương mại quốc tế. Rủi ro dễ nhận thấy trong thương mại quốc tế so với nội địa là rủi ro thay đổi tỷ giá. Những biến động không lường trước của tỷ giá ảnh hưởng rất lớn đến doanh số, giá cả và lợi nhuận của những nhà xuất khẩu cũng như những nhà nhập khẩu. Ví dụ, một công ty xuất khẩu gạo của Việt Nam phải đối mặt với sự lên giá của VND từ 1 USD = 14.000 VND lên 1 USD = 13.000 VND. Hai khả năng có thể xảy ra là:
(i) Sau khi VND lên giá, nếu công ty duy trì giá gạo không đổi tính bằng VND là 5.000.000 VND/tấn, thì công ty phải bán với giá tính bằng USD tăng lên từ: 357,143 USD/tấn (= 5.000.000: 14.000) lên 384,615 USD/tấn (= 5.000.000: 13.000). Do giá tăng nên công ty sẽ xuất khẩu được ít gạo hơn, nghĩa là thu nhập của công ty từ xuất khẩu cũng như lợi nhuận tính bằng VND giảm xuống.
(ii) Sau khi VND lên giá, nếu công ty duy trì giá gạo không đổi tính bằng USD là 357,143 USD/tấn, thì thu nhập của công ty sẽ giảm từ 5.000.000 VND/tấn (= 357,143 x 14000) xuống 4.642.859 VND/tấn (= 357,143 x 13.000).
Tương tự, giá cả, thu nhập và lợi nhuận của những nhà nhập khẩu cũng chịu ảnh hưởng bởi sự thay đổi không lường trước của tỷ giá.
Sự thay đổi của tỷ giá có ảnh hưởng đến giá cả, thu nhập và lợi nhuận của nhà xuất khẩu và nhập khẩu hay không là phụ thuộc vào sự thay đổi tỷ giá có thực sự làm cho hàng hoá của công ty trở nên rẻ hơn hay đắt hơn đối với người tiêu dùng, nghĩa là chúng ta phải đề cập đến tương quan trong tỷ lệ lạm phát giữa các quốc gia là như thế nào.
Ví dụ, nếu giá trị của VND tăng từ 1 USD = 14.000 VND lên 1 USD = 13.000 VND và giá gạo trong nước giảm từ 5 000 000 VND/tấn xuống 4 642 859 VND/tấn, thì giá gạo xuất khẩu tính bằng USD vẫn không đổi và là 357,143 USD/tấn (= 4.642.859: 13.000). Điều này có nghĩa là, cho dù tỷ giá thay đổi, nhưng tương quan lạm phát (thiểu phát) đã làm triệt tiêu hiệu ứng rủi ro tỷ giá đối với công ty (bằng chứng là giá gạo tính bằng USD không đổi, nên không ảnh hưởng đến cầu từ phía nhập khẩu).
Qua ví này, thấy rằng để xác định ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá, chúng ta phải đề cập đến yếu tố lạm phát và mối tương quan giữa lạm phát và thay đổi tỷ giá là như thế nào. Để làm được điều này chúng ta cần nghiên cứu Tài chính quốc tế ở mức độ vĩ mô cũng như mức độ vi mô, đó cũng là những nội dung cơ bản được trình bày trong cuốn sách này.
Rủi ro thay đổi tỷ giá mà những nhà xuất khẩu và nhập khẩu phải đối mặt là rủi ro cơ bản nhất trong thương mại quốc tế mà thương mại nội địa không có. Một rủi ro khác trong thương mại quốc tế là “rủi ro quốc gia country risk”. Rủi ro quốc gia bao gồm: bùng nổ chiến tranh, cách mạng, hay các sự kiện chính trị và xã hội khác xảy ra, khiến cho nhà xuất khẩu không thu được tiền. Rủi ro quốc gia liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng như tín dụng thương mại.