Giới thiệu giáo trình ” Giáo Trình Công Nghệ Dạy Học “
2.2. CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC – EDUCATIONAL TECHNOLOGY
2.2.1. Các khái niệm cơ bản:
Công nghệ giáo dục (CNGD) – còn được gọi là công nghệ học tập – learning technology- là những nghiên cứu và ứng dụng nhằm tạo điều kiện hỗ trợ và cải thiện hiệu quả dạy học thông qua việc tạo ra, ứng dụng và quản lý các quá trình công nghệ và nguồn tư liệu phù hợp.
Thuật ngữ công nghệ dạy học (CNDH) Instructional technology- bao gồm các quá trình, các hệ thống giảng dạy và học tập. Thuật ngữ Công nghệ Giáo dục (CNGD) – Educational technology bao gồm CNDH và các hệ thống khác được sử dụng trong quá trình phát triển khả năng của con người. Thuật ngữ CNDH thường đi với (và bao gồm) khái niệm lý thuyết dạy học – instructional theory và lý thuyết học tập- learning theory.
CNGD được định nghĩa đơn giản là một loạt các công cụ thực sự hữu ích trong việc nâng cao hiệu quả học tập. CNGD dựa trên định nghĩa phổ dụng của từ “công nghệ”. Nói một cách khái quát hơn CNGD có nghĩa là một tập hợp đa dạng những các quá trình và kiến thức mà con người sử dụng để mở rộng khả năng và để thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của họ. CNGD bao quát hơn CNDH.
CNGD là một khoa học về giáo dục con người dựa trên cơ sở ứng dụng những thành tựu của nhân loại từ trước tới nay, đặc biệt những thành tựu hiện đại của các khoa học giáo dục và các khoa học có liên quan như sinh học, tâm lý học, điều khiển học, lý thuyết tổ chức, logic học, kinh tế giáo dục,… CNGD tổ chức một cách khoa học quá trình đào tạo bằng cách xác định một cách chính xác mục tiêu giáo dục, người học, nội dung dạy học, các điều kiện và phương tiện kỹ thuật dạy học, các tiêu chuẩn đánh giá, hệ phương pháp tích cực hóa, chương trình hóa, quy trình hóa và cá thể hóa quá trình dạy học, nhằm đạt được mục đích giáo dục với sự chi phí và thời gian tối ưu.
CNGD là sự vận dụng khái niệm công nghệ trong công nghiệp, trong lao động với đối tượng vật chất vào lĩnh vực giáo dục, vào lao động dạy và học, với sự quan tâm đặc biệt đến các yếu tố của con người, vừa là đối tượng của quá trình giáo dục, vừa là chủ thể của quá trình này. Căn cứ vào những quy luật về tâm lý giáo dục, về giáo dục học, lý luận dạy học, lý luận học tập, lý luận đánh giá…, và những thành tựu về khoa học, công nghệ đặc biệt về công nghệ thông tin, có thể nói CNGD là một hướng nâng cao hiệu quả giáo dục, trên những quan niệm cơ bản là:
– Tổ chức khoa học quá trình GD
– Sử dụng hợp lý các phương tiện kỹ thuật trong quá trình GD
– Coi người học là chủ thể, tích cực chủ động và sáng tạo thực hiện quy trình giáo dục dưới sự hướng dẫn, tư vấn, điều phối của người thầy…
Khái niệm CNGD có thể dùng cho một phương thức đào tạo, ví dụ cho đào tạo từ xa. Ngoài ra, CNGD còn có thể dùng cho những công nghệ, những kỹ thuật áp dụng vào quá trình giáo dục – đào tạo (GD-DT), ví dụ: Công nghệ thông tin, công nghệ multimedia, công nghệ máy tính, công nghệ truyền thông.
Ở góc độ tâm lý học, có thể xem gốc lý luận của CNGD là hoạt động tinh thần và hoạt động vật chất, sản phẩm của CNGD là khái niệm. CNGD trước hết phải kiểm soát được quá trình hình thành khái niệm. CNGD cũng như công nghệ sản xuất đều có lõi là một chuỗi thao tác sắp xếp tuyến tính trong thời gian.
Sự mở rộng khái niệm công nghệ, vốn được áp dụng cho những quá trình xử lý vật chất, khi áp dụng cho những quá trình xử lý những đối tượng phi vật chất, có gây ra những quan niệm và tranh luận khác nhau; trong khi đó xu thế mở rộng khái niệm công nghệ này vẫn tiếp tục diễn ra và phần nào đã chứng minh được tác dụng tích cực của sự mở rộng này.
Cụ thể, khi chúng ta áp dụng công nghệ vào dạy học, tức là áp dụng công nghệ cho một quá trình phi vật chất, sản phẩm là sự hoàn thiện và mở rộng khả năng và nhân cách của con người. Quá trình học tập kể từ mục tiêu, đến nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức giáo dục cho đến đánh giá, có thể thể hiện bằng khái niệm “Chương trình đào tạo”.
CNGD khi được áp dụng theo khái niệm này là quy trình “thiết kế chương trình đào tạo” (Cirriculum Design) và quy trình “triển khai Chương trình đào tạo” (Cirriculum Development), gắn bó các yếu tố từ mục tiêu đến đánh giá của một khóa học, một ngành học (trải qua các năm học, các kì học, các tiêu chí, các học phần…), thành một thể thống nhất, chặt chẽ. Làm được việc này, hiệu quả học tập sẽ tăng lên rõ rệt. Khái niệm CNGD ở đây có nhiều nội dung liên quan đến quản lý giáo dục (QLGD), cho nên có thể tạo điều kiện cho việc nghiên cứu công nghệ quản lý giáo dục.
Một số học giả phản đối khái niệm CNGD vì cho rằng đối tượng tác động là con người với những khả năng vô cùng khác nhau và có khả năng tư duy nên không thể đồng nhất với các sản phẩm khác của công nghệ. Thực ra, trong bất kỳ quá trình làm việc nào của con người, dù vô tình hay chủ ý, cũng tồn tại một quy trình hay một giải pháp và công cụ lao động, tức là có yếu tố công nghệ và yếu tố con người.
Nếu vô tình thì con người vẫn làm theo một thói quen có trình tự và sử dụng những công cụ sẵn có, nếu có chủ ý, con người sẽ tìm kiếm một quy trình, một phương pháp và các công cụ lao động hợp lý để thực hiện công việc của mình. Như vậy, bất kì quá trình lao động nào cũng có một phần công nghệ. Giáo dục cũng không phải là ngoại lệ. CNGD là phương tiện hoạt động có công cụ và đối tượng lao động. Người học vẫn được xemđối tượng lao động nhưng là một đối tượng lao động đặc biệt chứ không phải như các nguyên vật liệu thông thường như sắt, thép, đất, đá….. Theo quan niệm mới, các em vừa là đối tượng lao động, vừa là người lao động, nghĩa là người tự đào tạo.