Giáo Trình Cho Sinh Viên Các Trường Lớp Dự Bị Đại Học Môn Lịch Sử Lưu VIP

Giáo Trình Cho Sinh Viên Các Trường Lớp Dự Bị Đại Học Môn Lịch Sử

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: Lượt xem: 136 lượt Lượt tải: 0 lượt

Nội dung

Giới thiệu giáo trình ” Giáo Trình Cho Sinh Viên Các Trường, Lớp Dự Bị Đại Học Môn Lịch Sử “

Bài 2: XÃ HỘI CỔ ĐẠI

2.1. Các quốc gia cổ đại phương Đông

2.1.1. Điều kiện tự nhiên và sản xuất ban đầu

* Phương Đông là nơi có những điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho đời sống con người, tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển sớm của nền văn minh cổ kính nhất của nhân loại.

Châu Á và vùng Đông Bắc châu Phi có nhiều đồng bằng rộng lớn, màu mỡ năm trên lưu vực các con sông rộng lớn như đồng bằng châu thổ sông Nin ở Ai Cập, đồng bằng sông Ti-gờ-rít và Ơ-phờ-rát ở Lưỡng Hà; đồng bằng sông Ấn, sông Hằng ở Ấn Độ; đồng bằng sông Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc… Những nơi này được phù sa bồi đắp nên đất đai rất phì nhiêu, dễ canh tác kể cả khi công cụ sản xuất còn thô sơ; có khí hậu nóng ẩm, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó, khoảng 3.500 năm đến 2.000 năm TCN, cư dân Ai Cập, nhiều vùng ở châu Á và cư dân ở khu vực các sông khác đã tụ tập và sinh sống đông đúc trên đồng bằng ven các con sông. Các dòng sông còn là huyết mạch giao thông quan trọng.

* Đời sống nông nghiệp buộc họ trước hết phải quan tâm đến công tác thủy lợi. Họ đào hệ thống kênh mương, đắp đập để tưới tiêu cho đồng ruộng và hạn chế lũ lụt… Công tác thủy lợi không chỉ giúp con người có thể thu hoạch mùa màng ổn định, mà còn gắn bó và ràng buộc với nhau hơn về mặt xã hội.

Nông nghiệp là ngành kinh tế chính ở các quốc gia phương Đông cổ đại. Các ngành kinh tế khác như chăn nuôi, đánh cá, thủ công nghiệp, thương nghiệp có tính chất bổ trợ.

Thủ công nghiệp với các nghề gốm, dệt vải, luyện kim, đóng thuyền, đồ trang sức, thủy tỉnh, thuộc da… đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người hoặc đem trao đổi sản phẩm với nhau hay với những vùng khác.

Chăn nuôi và đánh cá cũng được chú ý phát triển. Ở nhiều vùng, những đàn gia súc lớn như cừu, bò, dê… đã đem lại nguồn thực phẩm và sức kéo đáng kể cho cư dân phương Đông cổ đại.

2.1.2. Sự xuất hiện giai cấp và nhà nước

Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân hoá xã hội, xuất hiện kẻ giàu người nghèo, quý tộc và bình dân; trên cơ sở đó giai cấp và nhà nước ra đời. Khoảng thiên niên kỉ IV-III TCN, ở phương Đông, các quốc gia cổ đại đầu tiên trên thế giới hình thành. Do nhu cầu sản xuất nông nghiệp, trị thủy, làm thủy lợi và chiến tranh buộc các công xã nông thôn liên kết lại với nhau, hình thành các liên minh công xã và nhiều liên minh công xã hợp lại thành nhà nước.

Xã hội phương Đông có sự phân hoá sâu sắc thành giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Hai giai cấp đó được chia thành ba tầng lớp: tầng lớp quý tộc – tăng lữ, tầng lớp nông dân và tầng lớp nô lệ.

Đứng đầu tầng lớp thống trị là những ông vua chuyên chế. Giúp việc cho vua có đội ngũ đông đảo quý tộc, quan lại và tăng lữ. Đây là tầng lớp có nhiều của cải, nắm quyền điều hành xã hội.

Tầng lớp thứ hai là nông dân. Họ là bộ phận đông đảo nhất của xã hội và có vai trò to lớn trong sản xuất xã hội. Họ lao động trên mảnh đất được giao, cùng hợp tác với nhau để sản xuất nuôi sống gia đình và nộp một phần sản phẩm cho quý tộc gọi là thuế tô. Ngoài ra, họ còn phải nộp các loại thuế khác và thực hiện các nghĩa vụ cho nhà nước như đi lính, xây dựng các công trình, làm thủy lợi…

Nô lệ là tầng lớp thấp nhất trong xã hội. Nguồn gốc nô lệ thường là tù binh chiến tranh, nông dân nghèo không trả được nợ bị biến thành nô lệ hay do cha mẹ là nô lệ sinh ra. Số lượng nô lệ khá đông đảo, phải làm đủ mọi việc nặng nhọc và bị coi là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội. Chẳng hạn, ở Ai Cập cổ đại, nô lệ bị gọi là “jet” có nghĩa là “con vật” chứ không phải là con người.

2.1.3. Chế độ chuyên chế cổ đại

Các quốc gia cổ đại phương Đông là các quốc gia điển hình của mô hình nhà nước trung ương tập quyền mà người ta thường gọi là chế độ chuyên chế kiểu phương Đông.

Đứng đầu nhà nước là vua. Vua là hiện thân cho sự tập hợp hay thống nhất lãnh thổ và sự tập trung quyền lực. Vua tự coi là người đại diện của thần thánh ở trần gian, người chủ tối cao của đất nước.

Ở Ai Cập, vua được tôn xưng là Pharaon (cái nhà lớn), là con của thần Mặt Trời, ở Lưỡng Hà gọi là Ensi (người đứng đầu), còn ở Trung Quốc là Thiên tử (con trời)… Nhà vua nắm quyền lực tuyệt đối, tập trung trong tay cả vương quyền lẫn thần quyền.

Dưới vua và để giúp việc cho vua là một hệ thống quan lại từ trung ương đến địa phương. Bộ máy này lo việc thu thuế, xử án, xây dựng các công trình công cộng, xây dựng quân đội, tổ chức chiến tranh bảo vệ đất nước hay xâm lược nước ngoài.

Nói chung, nhà nước ở phương Đông được tổ chức từ trên xuống theo mô hình kim tự tháp mà ở trên đỉnh tháp là ông vua. Đó là kiểu nhà nước mang tính chất tập quyền đậm nét.

Tải tài liệu

1.

Giáo Trình Cho Sinh Viên Các Trường Lớp Dự Bị Đại Học Môn Lịch Sử

.pdf
60.40 MB

Có thể bạn quan tâm