Giáo Trình Chăn Nuôi Thú Y Cơ Bản – Tài Liệu Học Tập Ebooks PDF Lưu VIP

Giáo Trình Chăn Nuôi Thú Y Cơ Bản – Tài Liệu Học Tập Ebooks PDF

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: Lượt xem: 60 lượt Lượt tải: 0 lượt

Nội dung

Giới thiệu giáo trình ” Giáo Trình Chăn Nuôi Thú Y Cơ Bản “

2. Sinh lý của cơ quan tiêu hoá

2.1. Hoạt động tiêu hoá

2.1.1. Tiêu hóa ở miệng

Mỗi loài động vật có cách lấy thức ăn khác nhau.

Thức ăn đưa vào miệng sẽ được răng và lưỡi phối hợp nghiền nát và trộn thấm với nước bọt. Nước bọt có tác dụng: tẩm ướt và làm mếm thức ăn; làm trơn và bảo vệ niêm mạc xoang miệng; diệt khuẩn; hoà tan một số muối làm tăng vị của thức ăn; phân giải một phần tinh bột; ở loài nhai lại nước bọt còn có tác dụng trung hoà bớt lượng axit trong dạ dày, ở những loài tuyến mồ hôi kém phát triển thì sự bốc hơi nước từ nước bọt còn giúp cho sự toả nhiệt.

Sau khi được nghiền và thấm với nước bọt, thức ăn sẽ được nuốt xuống dạ dày.

Đối với loài nhai lại, thức ăn chưa được nhai kỹ đã nuốt xuống, sau khi vào dạ cỏ, thức ăn được nước bọt và dịch trong dạ cỏ thấm ướt và làm mềm. Khi yên tĩnh, nó ợ lên miệng để nhai kỹ lại, nhai lại là một thích ứng sinh học giúp gia súc ăn nhanh ở đồng có và dự trữ khối lượng thức ăn lớn trong dạ có. Sau khi lấy thức ăn, 30 – 70 phút trâu, bò bắt đầu nhai lại, mỗi đợt nhai kéo dài 40 -50 phút, một ngày đêm nhai lại từ 6 – 8 đợt.

2.1.2. Tiêu hoá ở dạ dày

* Tiêu hóa ở dạ dày đơn:

Dạ dày là nơi chứa thức ăn, đồng thời cũng là nơi biến đổi thức ăn về hai mật cơ học và hoá học.

– Tiêu hoá cơ học: thức ăn ở dạ dày sẽ được nhào trộn, co bóp liên tục, thấm ướt với dịch vị đến mức độ nhất định thì được đưa xuống tá tràng từng đợt do sự đóng mở của van hạ vị. Van này đóng mở có điều kiện, chủ yếu là do sự thay đổi của pH môi trường xung quanh hạ vị.

– Tiêu hoá hoá học: là tác động của dịch vị do các tuyến của dạ dày tiết ra biến đổi thức ăn từ dạng phức tạp đến dạng đơn giản hơn để cơ thể hấp thu được.

Các dịch của dạ dày tiết ra bao gồm:

+ Dịch nhày: bao phủ lên niêm mạc dạ dày nhằm bảo vệ thành dạ dày trước các va chạm cơ giới khi nhào trộn thức ăn còn cứng, đồng thời chống lại sự công phá của men tiêu hoá và HCI.

+ Men tiêu hoá: gồm có pepsin thuỷ phân protein thành chuỗi peptit nhờ sự hoạt hoá của HCl; men kimozin có tác dụng ngưng kết và tiêu hoá sửa.

+ Axit Clohydric (HCl): đây không phải là men tiêu hoá, nhưng có vai trò quan trọng trong việc hoạt hoá men pepsin, điều hoà đóng mở van hạ vị, kích thích tiết dịch tuy và ức chế lên men thối ở dạ dày.

Dịch vị được tiết ra do sự chỉ đạo của thần kinh:

+ Phản xạ không điều kiện: thức ăn chạm vào niêm mạc dạ dày tạo kích thích tiết dịch vị.

+ Phản xạ có điều kiện: khi phát hiện được tín hiệu quen thuộc đi kèm với hoạt động ăn uống thì tiết dịch vị. Theo cơ chế này, dịch vị tiết nhiều hơn và nhiều men tiêu hoá hơn.

* Tiêu hóa ở dạ dày kép:

Mỗi túi của dạ dày kép có chức năng riêng đối với quá trình tiêu hoá.

– Dạ cỏ được coi là một túi lên men lớn, trong dạ cổ không có men tiêu hoá xelluloza và các thức ăn khác, nhưng thức ăn lại được phân giải nhờ các vi sinh vật sống cộng sinh trong dạ cỏ. Vi sinh vật lên men xelluloza, tự tổng hợp nên protein của bản thân nó, đồng thời phân huỷ cho ra axit béo bay hơi, polysaccarit và vitamin nhóm B, do vậy đã cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể loài nhai lại.

– Dạ tổ ong là nơi vận chuyển và kiểm soát thức ăn. Thức ăn thô sẽ được chuyển sang dạ cỏ để ợ lên nhai lại, thức ăn lỏng sẽ được chuyển xuống dạ lá sách.

– Dạ lá sách là nơi lọc và ép thức ăn. Phần thô nằm lại giữa hệ thống phiến lá mỏng và được ép tiếp tục, phân lỏng đi xuống dạ múi khế. Ở dạ lá sách nước và axit béo được hấp thu mạnh.

Dạ múi khế là dạ dày chính của loài nhai lại, chức năng tiêu hoá tương tự như dạ dày đơn.

2.1.3. Tiêu hóa ở ruột non

Ở ruột non có sự co bóp của cơ trơn để nhào trộn thức ăn và vận chuyển thức ăn từ đoạn ruột trên xuống đoạn ruột dưới, ngoài ra còn vận dộng lắc lư đầy ruột non sang hai bên. Cả 3 loại vận động trên gọi là nhu động ruột.

Dịch tuỵ, dịch mật, dịch ruột được đổ vào ruột non để chuyển hoá khối thức ăn thành dạng các phân tử có kích thước nhỏ. Dịch tuy tiết ra men tripsin có tác dụng chuyển hoá protein rất mạnh thành các axit amin; men amilaza thuỷ phân tỉnh bột thành đường; lipaza của dịch tuy tiêu hoá mỡ cũng rất mạnh. Dịch mật không có men tiêu hoá, nhưng có tác dụng kích thích nhu động ruột, trung hoà axit của dưỡng trấp, nhũ tương mỡ tạo điều kiện cho men lipaza tác động, mật giúp cho việc hoà tan các vitamin tan trong dầu… Dịch ruột chứa đầy đủ các men tiêu hoá tỉnh bột, chất béo, chất đạm.

Kết quả tiêu hoá ở ruột non: những chất từ dạ dày xuống ruột non được biến thành dưỡng trấp gồm: axit amin, glucoza, galactoza, fructoza, glycerin, axit béo, khoáng và vitamin. Đây là những chất cơ thể dễ hấp thu.

2.1.4. Tiêu hóa ở ruột già

Phần thức ăn chưa hoặc không được tiêu hoá ở ruột non sẽ chuyển xuống ruột già. Các chất tiêu hoá dở dang ở ruột non, khi xuống ruột già được tiêu hoá tiếp nhờ dịch tiêu hoá ở ruột non đưa xuống. Đối với gia súc ăn thịt, sự tiêu hoá ở ruột già ít quan trọng, vì thức ăn được tiêu hoá và hấp thu gần như hoàn toàn ở ruột non. Đối với loài ăn tạp, ruột già tiêu hoá 14% xelluloza, riêng ngựa, thỏ tiêu hoá 40-50% xelluloza ở manh tràng. Loài nhai lại tiêu hoá 30% xelluloza ở ruột già.

Tải tài liệu

1.

Giáo Trình Chăn Nuôi Thú Y Cơ Bản – Tài Liệu Học Tập Ebooks PDF

.pdf
23.96 MB

Có thể bạn quan tâm