Giới thiệu giáo trình ” Giáo Trình Cao Cấp Lý Luận Chính Trị – Tôn Giáo Và Tín Ngưỡng “
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho các thế hệ sau di sản tư tưởng quý báu về nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, nhằm mục tiêu cao cả là giải phóng dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam, góp phần xây dựng một thế giới hòa bình, thịnh vượng, mọi người đều được phát triển toàn diện.
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh không trình bày hệ thống lý luận về bản chất, nguồn gốc, tính chất tôn giáo… nhưng tư tưởng của Người về tôn giáo lại có sự độc đáo, thể hiện tính sáng tạo và đặc biệt là thấm đẫm giá trị nhân văn và phát triển. Từ những bài viết, bài nói, những lời di huấn về tôn giáo cho đến những cử chỉ, hành động, sự ứng xử của Người đối với chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo đều luôn thể hiện sự tinh tế trong tiếp cận tôn giáo, sự am tường sâu sắc về văn hóa, tôn giáo Việt Nam, tinh thần khoan dung, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc.
Chính vì vậy, chính sách “tự do tín ngưỡng, đoàn kết lương giáo” do Người khởi xướng và lãnh đạo tổ chức thực hiện đã có sức lan tỏa lớn lao, cảm hóa được đông đảo đội ngũ chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo, giúp họ xóa bỏ mặc cảm, đồng lòng, đồng sức tích cực tham gia sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.1. Tiếp cận của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo, không chỉ thấy tôn giáo là một hiện tượng xã hội mang tính đặc thù, mà còn xem tôn giáo là một thành tố, bộ phận của văn hóa. Từ trong nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, trong mục Đọc sách của tập Nhật ký trong tù, Người đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Vì tôn giáo là một bộ phận của văn hóa nên nó mang chứa bản chất nhân văn, nhân đạo của văn hóa. Chính từ cách tiếp cận tôn giáo không chỉ với tư cách là một “phạm trù chính trị” mà còn với tư cách “phạm trù văn hóa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện ra nhiều giá trị quý báu ẩn chứa trong tôn giáo.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã làm sáng rõ bản chất tôn giáo với tính cách một hình thái ý thức xã hội, một tiểu hệ thống kiến trúc thượng tầng (cả ý thức tôn giáo và thiết chế tôn giáo). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin khi nhìn nhận tôn giáo là một thực thể xã hội, bao gồm cả ý thức, thiết chế và cả với tính cách là một lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân có tín ngưỡng. Và chính trong sự nhìn nhận đó, giá trị nhân văn và phát triển trong tư tưởng của Người về tôn giáo càng tỏa sáng.
Người không chỉ thông cảm với sự cùng khổ của quần chúng nhân dân, cả người có tín ngưỡng và không tín ngưỡng tôn giáo khi bị áp bức, bóc lột, phải sống cảnh lầm than với thân phận của người dân mất nước, mà còn nhận thấy và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp, tin tưởng và khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong giải quyết vấn đề tôn giáo. C.Mác từng khẳng định, “Đặc quyền tín ngưỡng là một quyền phổ biến của con người”. Trung thành và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những đã cụ thể hóa nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà còn bổ sung, nâng tầm ý nghĩa của tự do tín ngưỡng, tôn giáo khi đặt nó trong mối quan hệ gắn bó với độc lập dân tộc.
Theo Người, tự do tín ngưỡng, tôn giáo có quan hệ hữu cơ với vận mệnh dân tộc vì “nước có độc lập thì tôn giáo mới được tự do”. Sự nghiệp giải phóng dân tộc nhằm mục tiêu tối cao là đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào, trong đó có tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nếu không đạt mục đích ấy thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì. Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền lợi của người dân trong một nước tự do, độc lập, đồng thời là nhân tố để thực hiện đoàn kết dân tộc. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải nhất quán và triệt để thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn xuất phát từ lòng khoan dung, tôn trọng đức tin của mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tín đồ Phật giáo tin ở Phật; tín đồ Giatô tin ở đức Chúa Trời; cũng như chúng ta tin ở đạo Khổng. Đó là những vị chí tôn nên chúng ta tin tưởng”. Người chỉ ra rằng: “Tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật”, chủ nghĩa duy linh và chủ nghĩa duy vật khác nhau, rõ ràng là thế, nhưng không vì vậy mà bài xích, nghi kỵ nhau; ngược lại, phải tôn trọng đức tin của mỗi người.